Tôi và gia đình sang Mỹ cũng được nhiều năm rồi. Bạn bè quen biết ở Việt Nam và ở Mỹ dần dần mỗi đứa mỗi phương do công ăn việc làm thay đổi. Chỉ thỉnh thoảng mới có thời gian gọi điện thoại hỏi thăm nhau trong những ngày cuối tuần, nhiều đứa phải đi làm việc vào ban đêm thành ra chỉ có thể nhắn lời hỏi thăm vào máy answer machine chứ đâu có dịp nói chuyện gì. Vài năm gần đây, với sự phát triển dữ dội của ngành điện toán và Internet, những phương pháp trao đổi thư từ trên Internet ngày càng trở nên dễ hơn và cũng làm cho tình bạn bè thêm khắn khít qua trao đổi e-mail.
Làm việc cho một công ty ở bộ phận buôn bán hàng, tôi phải trao đổi, gởi thư từ và e-mail hàng ngày đến nhiều khách hàng ngoại quốc lẫn ViệtNam . Mỗi buổi sáng khi ngồi vào bàn làm việc, check được e-mail của khách mua hàng làm tôi cảm thấy phấn khởi cho cả ngày làm việc hôm đó. Thỉnh thoảng, trong những lúc rãnh rỗi, viết vài dòng gởi e-mail cho các bạn bè ở Việt Nam để hỏi thăm chuyện làm ăn và tình hình gia đình của họ để biết thêm tình hình trong nước. Với e-mail account mới và công ty cho tôi sử dụng, mọi chuyện trao đổi thư từ và e-mail với khách hàng và bạn bè được trôi chảy cũng được vài tuần. Đến một hôm, tôi phải ngạc nhiên khi e-mail account của tôi nhận được cả vài chục cái e-mail từ những tên người gởi thật lạ mà tôi chưa từng biết và còn những quảng cáo nữa chứ. Đây có thể nói là điều ngạc nhiên thật sự vì tôi đâu có bao giờ cho địa chỉ e-mail của tôi cho những công ty quảng cáo hay những người gởi kỳ lạ này.
Làm việc cho một công ty ở bộ phận buôn bán hàng, tôi phải trao đổi, gởi thư từ và e-mail hàng ngày đến nhiều khách hàng ngoại quốc lẫn Việt
Đối với một người chỉ biết sơ về computer như tôi, sử dụng computer để soạn hồ sơ hay viết e-mail cho khách hàng mà thôi thì những subject "thật kêu" của các e-mail này làm cho tôi cảm thấy tò mò và muốn xem nội dung bên trong. Nhìn vào subject e-mail với nội dung, "Discount on ticket to Haiwaii trip", tôi có vẻ mừng thầm vì hai vợ chồng dự định đi chơi Haiwaii vào mùa hè này, hẳn đây là dịp tìm mua được giá vé rẻ để làm bà xã vui lòng. Bấm "mouse" lên e-mail để mở ra, trong e-mail có để quảng cáo giá vé rẻ 10% nếu mua trong vòng 10 ngày tới và có một link đến trang web: www.priceline.com . Click vào trang web này, tôi có thể tìm mua discount giá vé máy bay rẻ hơn những chỗ agency khác cả vài chục đồng cho một vé. Từ đó, tôi bắt đầu mất cảnh giác với những e-mail có những dòng subject hấp dẫn như: "Finance your house to get a good deal", "Find your new job on Monster.com", "Work at home with a stable salary",... Đa số những e-mail này quảng cáo các trang web trên Internet và kêu gọi người ta vào đó với mục đích quảng cáo những sản phẩm trên thị trường tựa như "ngồi xem TV thì phải xem quảng cáo" vậy mà.
Tuy nhiên, một hôm tôi nhận được trong các e-mail quảng cáo với subject mà tôi tò mò muốn xem thử nội dung "Free adult pics...". Chậm rãi nhấm "mouse" vào subject của e-mail này, e-mail mở ra hình của các thiếu nữ khỏa thân và còn có một link để vào trang chính, mình phải trả tiền nếu muốn xem thêm. Tôi lặng lẽ xóa đi e-mail này sợ vợ mình hay con cái trong nhà thấy được thì xấu hổ chết! Hôm sau, tôi lại nhận được vài e-mail có nội dung tương tự mà còn có một e-mail với tiêu đề: "Sex with animal...", tôi bắt đầu hoang mang vì nếu con cái mình hay ai nấy trong nhà sử dụng e-mail lỡ xem những e-mail này thì quả là đáng sợ vì nó đầu độc những ý nghĩa đồi trụy và bẩn thỉu cho con cái trong nhà. Tôi bắt đầu e ngại và dần dần xóa đi những e-mail có subject bậy bạ như vậy và không muốn xem nội dung bên trong nữa, chỉ có làm thêm mất thời gian mà thôi.
Ở nhà, thỉnh thoảng có dùng Outlook Express để nhận e-mail và download xuống computer để lưu trữ các hồ sơ và e-mail mà tôi cho rằng nên giữ lại để tham khảo sau này. Một hôm tôi nhận được một e-mail có hết sức lạ và tôi đoán hẳn người viết và gởi e-mail này phải là người ViệtNam vì nó là chữ Việt Nam không dấu "Thinh Nguyen Thu..." và người gởi tuy là một tên lạ nhưng có vẻ là tên của người Việt Nam thanhpha525@yahoo.com. Tôi cứ đinh ninh trong đầu là người gởi là một người nào đó trong các hội đoàn mình đã tham gia và muốn gởi "Thỉnh Nguyện Thư" cho một chuyện gì đó. Bấm "mouse" lên e-mail đó để xem thử nội dung bên trong là gì, nhưng chỉ sau cú bấm đó e-mail tự động chạy lên rồi và lấy tất cả các địa chỉ e-mail của tôi lưu trữ trong Inbox để gởi ra ngoài liên tục. Bấy giờ tôi chỉ biết bấm lên nút Power-off trên computer để tắt máy và chấm dứt điều đang diễn ra mà tôi chưa từng thấy. Sau này, hỏi thăm một người bạn làm về lãnh vực computer, anh ta cho biết rằng gần đây có những người hacker Việt Nam ở một vài quốc gia nào đó dùng các "e-mail account ma" để gởi virus hay những e-mail với ý đồ phá hoại hoặc lấy xem nội dung các e-mail của các cá nhân hoặc hội đoàn công ty thương mại cho những mục đích riêng. Tôi lập tức thông báo với các bạn bè về những loại e-mail với nội dung như thế, nếu có gặp thì nên xóa bỏ chứ đừng mở ra dễ bị đọc lén hay tiết lộ các thư từ hay các tài liệu văn bản làm ăn quan trọng.
Một lần khác, sau khi đã để ý với những e-mail có mục đích quậy phá máy computer, tôi nhận được một e-mail với nội dung mà tôi không thể nào không thử mở ra xem: "TU DO TON GIAO". Tôi nghĩ chắc là một tổ chức tôn giáo nào muốn gởi thư trưng cầu ý kiến về tự do tôn giáo ở ViệtNam vì người gởi có địa chỉ e-mail tên Việt Nam . Nghĩ như thế tôi lại tự nhủ đây chỉ là một e-mail có tính cách tôn giáo mà thôi, mở ra để xem thử. Khi vừa bấm vào, e-mail tự động gọi chương trình Microsoft Word trong máy tôi chạy và chẳng biết sao chỉ trong phút chốc sau khi nó tự động đóng Microsoft Word, tôi không còn dùng được chương trình này nữa. Bàng hoàng vì máy computer của tôi bị virus tấn công và tôi cũng không biết làm sao, đang lúc đang càu nhàu vì máy computer chạy lộn xộn may lúc đó vợ tôi nhắc về vợ chồng người hàng xóm mới dọn tới là kỹ sư về computer, may ra họ sẽ giúp đỡ và cho vài lời khuyên để tránh trường hợp tương tự trong tương lai. Hôm sau, đợi sau giờ làm việc, sang nhà hàng xóm gõ cửa để hỏi thăm về vấn đề xảy ra với computer ở nhà. Vợ chồng hàng xóm chậm rãi giải thích về các trục trặc của e-mail mà người ta thường gặp cho tôi nghe như sau:
"Hai vấn nạn lớn nhất của e-mail hiện nay là: spam mail và virus e-mail.
- Spam mail: là e-mail do những hacker lấy được địa chỉ e-mail của bạn thông qua những e-mail trao đổi có kèm theo một danh sách địa chỉ e-mail ở trong mục CC (Carbon copy) mỗi khi gởi trên Internet hoặc qua những trao đổi trong các forum hay news group. Các hacker này, sau khi đã thu thập những địa chỉ e-mail và gộp chung thành một danh sách được dùng để bán lại hoặc dùng các danh sách e-mail làm e-mail marketing nhằm mục đích thương mại.
- Virus e-mail: là những e-mail do những người tinh nghịch phá hoại hoặc những kẻ muốn dùng virus để phá hoại một loạt những hệ thống computer nào đó với một mục đích xấu. Thông thường virus được gởi đến các địa chỉ e-mail bạn qua các tài liệu gởi kèm (attached) và thường tấn công vào các chương trình soạn thảo văn bản như Microsoft Word. Nhưng một khi đã được mở ra, nó không dừng lại ở các tài liệu văn bản mà lan ra và hủy hoại nhiều chương trình và những ứng dụng khác, và cuối cùng là toàn bộ hệ thống computer. Nếu không được lưu trữ dự phòng các tài liệu quan trọng, hệ thống điện toán của bạn có thể bị mất toàn bộ những tài liệu và văn thư quan trọng đó và khó có thể cứu lại được.
Đây có thể nói là hai vấn nạn lớn nhất về trong việc gởi nhận e-mail".
Tôi nghe xong lời kể thì bàng hoàng vì những gì mình biết về e-mail còn quá ít và những mối nguy hại mà e-mail có thể gây ra cho mình làm thế nào mà đề phòng đây. Chưa kịp mở miệng hỏi "Làm thế nào để đề phòng?" thì anh bạn hàng xóm như đoán trước và nêu thẳng vấn đề: "Để phòng ngừa với những mất mát do virus e-mail gây ra cho máy điện toán, anh có thể tìm mua bộ software Norton Antivirus version 2002 có khả năng tự update hàng ngày các thuật giải để trị những loại virus mới nhất thông qua Internet, với giá chỉ khoảng 24.99 USD online hoặc ở các tiệm bán software gần nhà như Best Buy, Fry’s Electronics, CompUSA, Circuit City,... Điểm đặc biệt của chương trình Norton Antivirus so với các nhà cung cấp software Antivirus khác là nó được update thường xuyên các thuật giải mỗi khi có một loại virus mới xuất hiện và có phương pháp bảo vệ máy computer của bạn nếu bị tấn công bởi những virus mới này. Tuy nhiên, nếu bạn chưa có thời gian mua và cài đặt chương trình Norton Antivirus 2002, bạn có thể tạm thời vào website: http://housecall.antivirus.com để "scan và clean" virus trong máy bạn ngay nếu bạn biết chắc hoặc nghi ngờ máy computer của bạn đã bị nhiễm virus."
Nghe xong, tôi thở phào nhẹ nhỏm vì mình có thể tìm mua một bộ software với giá rẻ như vậy mà lại có thể bảo vệ và đề phòng máy điện toán của mình khỏi bị phá hoại bởi những loại virus mới và nguy hiểm.
Ra về tôi tự nhủ, dùng e-mail trong thời đại computer thật là hữu dụng cho việc trao đổi thư từ văn kiện, tài liệu nhưng những thành phần bất hảo trên Internet đã lạm dụng nó để làm phương tiện quảng cáo một cách tràn lan và bất kể người nhận e-mail. Chưa hết, lợi dụng e-mail để quảng cáo cho sex và những hình ảnh bẩn thỉu trên Internet đã biến e-mail thành một công cụ quảng cáo hạ cấp, thêm vào đó, những kẻ bất hảo lại muốn dùng e-mail làm một phương tiện lan truyền virus chỉ với một mục đích đơn giản là... "giải trí" mà thôi. Ngày nay, với sự nở rộ quá rộng của các dịch vụ e-mail miễn phí như Hotmail, Yahoo, Juno,... đây chính là mục tiêu và cũng là nơi xuất xứ của các e-mail quảng cáo vì người ta có thể tạo ra một account dùng cho việc quảng cáo mà không có ràng buộc trách nhiệm luật pháp gì về việc sử dụng các e-mail account này và tha hồ gởi cho những thành viên trong cùng dịch vụ với số thứ tự hay tên khác đi một cách quá dễ dàng mà không bị ai cấm cản hay ngăn chặn cả. Nếu dùng các dịch vụ e-mail miễn phí này, hẳn các bạn cũng không lạ lẫm gì với việc phải xóa đi những e-mail quảng cáo hàng ngày có đầy trong e-mail account của mình mà đôi khi còn làm lộn xộn những e-mail quan trọng của mình nữa chứ.
Nếu bạn là một người cần dùng e-mail cho công việc quan trọng hay làm ăn, hẳn bạn sẽ cần tìm một dịch vụ e-mail đàng hoàng để có một account sạch sẽ không có những e-mail quảng cáo; hay bạn lại sợ tốn tiền để rồi mỗi ngày phải lo "clean-up" thùng e-mail của mình. Mỗi người có một ý thích riêng nhưng theo tôi nghĩ nếu có thể giảm bớt những việc không cần thiết này thì mình sẽ cảm thấy thoải mái và vui vẻ với cuộc sống hơn.
Tuy nhiên, một hôm tôi nhận được trong các e-mail quảng cáo với subject mà tôi tò mò muốn xem thử nội dung "Free adult pics...". Chậm rãi nhấm "mouse" vào subject của e-mail này, e-mail mở ra hình của các thiếu nữ khỏa thân và còn có một link để vào trang chính, mình phải trả tiền nếu muốn xem thêm. Tôi lặng lẽ xóa đi e-mail này sợ vợ mình hay con cái trong nhà thấy được thì xấu hổ chết! Hôm sau, tôi lại nhận được vài e-mail có nội dung tương tự mà còn có một e-mail với tiêu đề: "Sex with animal...", tôi bắt đầu hoang mang vì nếu con cái mình hay ai nấy trong nhà sử dụng e-mail lỡ xem những e-mail này thì quả là đáng sợ vì nó đầu độc những ý nghĩa đồi trụy và bẩn thỉu cho con cái trong nhà. Tôi bắt đầu e ngại và dần dần xóa đi những e-mail có subject bậy bạ như vậy và không muốn xem nội dung bên trong nữa, chỉ có làm thêm mất thời gian mà thôi.
Ở nhà, thỉnh thoảng có dùng Outlook Express để nhận e-mail và download xuống computer để lưu trữ các hồ sơ và e-mail mà tôi cho rằng nên giữ lại để tham khảo sau này. Một hôm tôi nhận được một e-mail có hết sức lạ và tôi đoán hẳn người viết và gởi e-mail này phải là người Việt
Một lần khác, sau khi đã để ý với những e-mail có mục đích quậy phá máy computer, tôi nhận được một e-mail với nội dung mà tôi không thể nào không thử mở ra xem: "TU DO TON GIAO". Tôi nghĩ chắc là một tổ chức tôn giáo nào muốn gởi thư trưng cầu ý kiến về tự do tôn giáo ở Việt
"Hai vấn nạn lớn nhất của e-mail hiện nay là: spam mail và virus e-mail.
- Spam mail: là e-mail do những hacker lấy được địa chỉ e-mail của bạn thông qua những e-mail trao đổi có kèm theo một danh sách địa chỉ e-mail ở trong mục CC (Carbon copy) mỗi khi gởi trên Internet hoặc qua những trao đổi trong các forum hay news group. Các hacker này, sau khi đã thu thập những địa chỉ e-mail và gộp chung thành một danh sách được dùng để bán lại hoặc dùng các danh sách e-mail làm e-mail marketing nhằm mục đích thương mại.
- Virus e-mail: là những e-mail do những người tinh nghịch phá hoại hoặc những kẻ muốn dùng virus để phá hoại một loạt những hệ thống computer nào đó với một mục đích xấu. Thông thường virus được gởi đến các địa chỉ e-mail bạn qua các tài liệu gởi kèm (attached) và thường tấn công vào các chương trình soạn thảo văn bản như Microsoft Word. Nhưng một khi đã được mở ra, nó không dừng lại ở các tài liệu văn bản mà lan ra và hủy hoại nhiều chương trình và những ứng dụng khác, và cuối cùng là toàn bộ hệ thống computer. Nếu không được lưu trữ dự phòng các tài liệu quan trọng, hệ thống điện toán của bạn có thể bị mất toàn bộ những tài liệu và văn thư quan trọng đó và khó có thể cứu lại được.
Đây có thể nói là hai vấn nạn lớn nhất về trong việc gởi nhận e-mail".
Tôi nghe xong lời kể thì bàng hoàng vì những gì mình biết về e-mail còn quá ít và những mối nguy hại mà e-mail có thể gây ra cho mình làm thế nào mà đề phòng đây. Chưa kịp mở miệng hỏi "Làm thế nào để đề phòng?" thì anh bạn hàng xóm như đoán trước và nêu thẳng vấn đề: "Để phòng ngừa với những mất mát do virus e-mail gây ra cho máy điện toán, anh có thể tìm mua bộ software Norton Antivirus version 2002 có khả năng tự update hàng ngày các thuật giải để trị những loại virus mới nhất thông qua Internet, với giá chỉ khoảng 24.99 USD online hoặc ở các tiệm bán software gần nhà như Best Buy, Fry’s Electronics, CompUSA, Circuit City,... Điểm đặc biệt của chương trình Norton Antivirus so với các nhà cung cấp software Antivirus khác là nó được update thường xuyên các thuật giải mỗi khi có một loại virus mới xuất hiện và có phương pháp bảo vệ máy computer của bạn nếu bị tấn công bởi những virus mới này. Tuy nhiên, nếu bạn chưa có thời gian mua và cài đặt chương trình Norton Antivirus 2002, bạn có thể tạm thời vào website: http://housecall.antivirus.com để "scan và clean" virus trong máy bạn ngay nếu bạn biết chắc hoặc nghi ngờ máy computer của bạn đã bị nhiễm virus."
Nghe xong, tôi thở phào nhẹ nhỏm vì mình có thể tìm mua một bộ software với giá rẻ như vậy mà lại có thể bảo vệ và đề phòng máy điện toán của mình khỏi bị phá hoại bởi những loại virus mới và nguy hiểm.
Ra về tôi tự nhủ, dùng e-mail trong thời đại computer thật là hữu dụng cho việc trao đổi thư từ văn kiện, tài liệu nhưng những thành phần bất hảo trên Internet đã lạm dụng nó để làm phương tiện quảng cáo một cách tràn lan và bất kể người nhận e-mail. Chưa hết, lợi dụng e-mail để quảng cáo cho sex và những hình ảnh bẩn thỉu trên Internet đã biến e-mail thành một công cụ quảng cáo hạ cấp, thêm vào đó, những kẻ bất hảo lại muốn dùng e-mail làm một phương tiện lan truyền virus chỉ với một mục đích đơn giản là... "giải trí" mà thôi. Ngày nay, với sự nở rộ quá rộng của các dịch vụ e-mail miễn phí như Hotmail, Yahoo, Juno,... đây chính là mục tiêu và cũng là nơi xuất xứ của các e-mail quảng cáo vì người ta có thể tạo ra một account dùng cho việc quảng cáo mà không có ràng buộc trách nhiệm luật pháp gì về việc sử dụng các e-mail account này và tha hồ gởi cho những thành viên trong cùng dịch vụ với số thứ tự hay tên khác đi một cách quá dễ dàng mà không bị ai cấm cản hay ngăn chặn cả. Nếu dùng các dịch vụ e-mail miễn phí này, hẳn các bạn cũng không lạ lẫm gì với việc phải xóa đi những e-mail quảng cáo hàng ngày có đầy trong e-mail account của mình mà đôi khi còn làm lộn xộn những e-mail quan trọng của mình nữa chứ.
Nếu bạn là một người cần dùng e-mail cho công việc quan trọng hay làm ăn, hẳn bạn sẽ cần tìm một dịch vụ e-mail đàng hoàng để có một account sạch sẽ không có những e-mail quảng cáo; hay bạn lại sợ tốn tiền để rồi mỗi ngày phải lo "clean-up" thùng e-mail của mình. Mỗi người có một ý thích riêng nhưng theo tôi nghĩ nếu có thể giảm bớt những việc không cần thiết này thì mình sẽ cảm thấy thoải mái và vui vẻ với cuộc sống hơn.
Email là gì? Lợi ích của Email
1. Email là gì ?
Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail), đôi khi được dịch không chính xác là điện thư, là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính.
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần mềm thư điện tử kiểu mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương thích với kiểu tệp HTML. Phần mềm thư điện tử (email software) là loại phần mềm nhằm hỗ trợ cho người dùng việc chuyển và nhận các mẫu thông tin (thường là dạng chữ). Thông tin có thể đưa vào phần mềm thư điện tử bằng cách thông dụng nhất là gõ chữ bàn phím hay các phương cách khác ít dùng hơn như là dùng máy quét hình (scanner), dùng máy ghi hình số (digital camera) đặc biệt là các Web cam. Phần mềm thư điện tử giúp đỡ cho việc tiến hành soạn thảo, gửi, nhận, đọc, in, xoá hay lưu giữ các (điện) thư. Có hai trường hợp phân biệt phần mềm thư điện tử là:
* Loại phần mềm thư điện tử được cài đặt trên từng máy tính của người dùng gọi là email client, hay phần mềm thư điện tử (cho) máy khách. Các thí dụ loại phần mềm này bao gồm: Microsoft Outlook, Microsoft Outlook Express, Netscape Comunicator, hay Eudora. Phần mềm thư điện tử này còn có tên là MUA (từ chữ mail user agent) tức là Tác nhân sử dụng thư. Một cách gọi tên thông dụng khác của email client là ứng dụng thư điện tử (email application) nếu không bị nhầm lẫn.
* Ngược lại, loại phần mềm thư điện tử không cần phải cài đặt mà nó được cung ứng bởi các máy chủ (web server) trên Internet gọi là WebMail, hay Phần mềm thư điện tử qua Web. Để dùng được các phần mềm loại này thường các máy tính nối vào phải có một máy truy cập tương thích với sự cung ứng của WebMail. Thí dụ loại này là mail.Yahoo.com, hay hotmail.com.
Nơi cung ứng phần mềm cũng như phương tiện chuyển thư điện tử gọi là nhà cung ứng dịch vụ thư điện tử (email sevice provider). Máy tính làm việc cung ứng các dịch vụ thư điện tử là MTA (từ chữ mail transfer agent) hay là đại lý chuyển thư. Vì đây là máy chủ nên khi không bị nhầm lẫn với các loại máy chủ khác thì người ta cũng gọi MTA là máy chủ hay rõ hơn là máy chủ thư điện tử.
Các dịch vụ thư điện tử có thể được cung ứng miễn phí hay có lệ phí tuỳ theo nhu cầu và mục đích của người dùng. Ngày nay, email thường được cung cấp kèm với các phương tiện Internet khi người tiêu dùng ký hợp đồng với các dịch vụ Internet một cách miễn phí.
2. Lợi ích của email so với thư thường
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần mềm thư điện tử kiểu mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương thích với kiểu tệp HTML. Phần mềm thư điện tử (email software) là loại phần mềm nhằm hỗ trợ cho người dùng việc chuyển và nhận các mẫu thông tin (thường là dạng chữ). Thông tin có thể đưa vào phần mềm thư điện tử bằng cách thông dụng nhất là gõ chữ bàn phím hay các phương cách khác ít dùng hơn như là dùng máy quét hình (scanner), dùng máy ghi hình số (digital camera) đặc biệt là các Web cam. Phần mềm thư điện tử giúp đỡ cho việc tiến hành soạn thảo, gửi, nhận, đọc, in, xoá hay lưu giữ các (điện) thư. Có hai trường hợp phân biệt phần mềm thư điện tử là:
* Loại phần mềm thư điện tử được cài đặt trên từng máy tính của người dùng gọi là email client, hay phần mềm thư điện tử (cho) máy khách. Các thí dụ loại phần mềm này bao gồm: Microsoft Outlook, Microsoft Outlook Express, Netscape Comunicator, hay Eudora. Phần mềm thư điện tử này còn có tên là MUA (từ chữ mail user agent) tức là Tác nhân sử dụng thư. Một cách gọi tên thông dụng khác của email client là ứng dụng thư điện tử (email application) nếu không bị nhầm lẫn.
* Ngược lại, loại phần mềm thư điện tử không cần phải cài đặt mà nó được cung ứng bởi các máy chủ (web server) trên Internet gọi là WebMail, hay Phần mềm thư điện tử qua Web. Để dùng được các phần mềm loại này thường các máy tính nối vào phải có một máy truy cập tương thích với sự cung ứng của WebMail. Thí dụ loại này là mail.Yahoo.com, hay hotmail.com.
Nơi cung ứng phần mềm cũng như phương tiện chuyển thư điện tử gọi là nhà cung ứng dịch vụ thư điện tử (email sevice provider). Máy tính làm việc cung ứng các dịch vụ thư điện tử là MTA (từ chữ mail transfer agent) hay là đại lý chuyển thư. Vì đây là máy chủ nên khi không bị nhầm lẫn với các loại máy chủ khác thì người ta cũng gọi MTA là máy chủ hay rõ hơn là máy chủ thư điện tử.
Các dịch vụ thư điện tử có thể được cung ứng miễn phí hay có lệ phí tuỳ theo nhu cầu và mục đích của người dùng. Ngày nay, email thường được cung cấp kèm với các phương tiện Internet khi người tiêu dùng ký hợp đồng với các dịch vụ Internet một cách miễn phí.
2. Lợi ích của email so với thư thường
* Thay vì viết thư bằng giấy mực và bút thì người gửi chỉ cần gõ chữ từ bàn phím của máy tính và biết dùng một phần mềm thư điện tử (email program).
* Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy nhận hay máy gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín hiệu điện mã hoá nội dung bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận. Do đó, chỉ có nội dung hay cách trình bày lá thư điện tử là được bảo toàn. Trong khi đó, dùng đường bưu điện người ta có thể gửi đi các vật liệu hàm chứa thêm nội dung hay ý nghĩa khác. Điều này có thể rất quan trọng đối với nhiều người.
* Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không đáng kể so với gửi qua đường bưu điện.
* Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư điện tử ra đọc nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư. Đồng thời, vì mỗi người dùng thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư điện tử sẽ khó bị người ở chung đọc lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng ngược lại, các tay tin tặc xa lạ có thể xâm nhập vào hệ thống thư điện tử của cá nhân nếu như các mật mã hay các hệ thống an toàn phần mềm bị bẻ gãy.
* Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện rất nhiều lần. Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có thể lên đến hàng Gbyte như dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn. Số thư có thể dự trữ trong dung lượng này tương đương với vài bộ tự điển bách khoa.
* Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có bột antrax, thư bom, ...) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong. Ngược lại, hệ thống thư điện tử, không thể gây thương tích mà thường phải đương đầu với nhiều vấn nạn như virus máy tính, các thư nhũng lạm (spam mail), các thư quảng cáo (advertisement mail) và các thư khiêu dụ tình dục (pornography mail), đặc biệt là cho trẻ em, thì lại rất nhiều. Đối với các loại thư độc hại (malicious mail) này người dùng cần phải cài đặt thêm các tiện ích hay chức năng lọc (sẵn có trong phần mềm hay phải mua thêm) để giảm trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là không có công cụ phần mềm nào là tuyệt hảo.
* Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi nội dung lá thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến trong cả hai hệ thống bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về thông tin của hai loại này là tương đương mặc dù thư điện tử chuyển tiếp có nhiều xác suất gây nhiễm virus máy tính.
* Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự, trong hệ thống thư điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ liệu chứa nội dung các email cộng với điạ chỉ của người chủ thư điện tử. Điểm khác biệt ở đây là hộp thư điện tử sẽ có nhiều chức năng hơn là việc xoá bỏ các thư cũ.
* Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng ký qua một hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt không bao giờ trùng với địa chỉ email khác.
* Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng danh từ hộp thư điện tử hay hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần mềm email đã được đăng kí dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.
3. Các mệnh lệnh Anh ngữ để đi vào các ngăn chứa thư.
Đây thực ra chỉ là các ngăn chứa thư từ đã được phân loại theo tình trạng của các email cho tiện dùng. Người chủ thư có thể tự mình xếp loại các mail này hay chúng được xếp một cách tự động (do cài đặt hay do mặc định).
* Inbox có nghĩa là Hộp thư nhận hay Hộp thư vào: Đây là ngăn đựng các thư mới nhận về.
* Outbox có nghĩa là Hộp thư gửi hay Hộp thư ra: Đây là ngăn đựng các thư đang chờ được gửi đi. Thông thường, nếu hệ thống email hoạt động tốt thì các thư nằm trong hộp này chỉ trong thời gian rất ngắn (vài giây đến vài phút là tối đa). Do đó, ngăn chứa này thường là một ngăn trống.
* Draft có nghĩa là Ngăn nháp: Để chứa các email chưa hoàn tất hay đã hoàn tất nhưng chủ thư chưa muốn gửi đi.
* Trash, Trash can hay Deleted Item có nghĩa là Ngăn xóa: Còn có thể gọi là Thùng rác hay Ngăn thư đã xóa. Đây là chỗ dự phòng tạm thời chứa các email đã xóa bỏ trong một thời gian. Chức năng này tiện lợi để phục hồi hay đọc lại các thư điện tử cần thiết đã lỡ tay bị xóa.
* Sent, sent Messages hay Sent Item có nghĩa là Ngăn đã gửi: Nơi này dùng để chứa các thư đã gửi.
* Junk hay Bulk có nghĩa là Ngăn thư linh tinh: Đây là nơi chứa các mail đã được lọc và bị loại ra một cách tự động, còn được gọi là Thùng thư rác hay Ngăn chứa tạp thư. Thường thì nơi này sẽ chứa các thư quảng cáo, các thư nhũng lạm, các thư được gửi đến một số lượng lớn địa chỉ có cùng một nội dung, hay các loại thư độc hại ...
4. Hoạt động của hệ thống email hiện nay có thể được minh họa qua phân tích một thí dụ như sau:
a. Nguyễn dùng MUA của mình để soạn một lá thư có địa chỉ người nhận là Trần với địa chỉ là [Bạn phải đăng kí mới nhìn thấy link này. ] . Nguyễn nhấn nút Send và phần mềm thư điện tử của Nguyễn áp dụng SMPT để gửi mẫu thông tin (lá thư) đến MTA, hay máy chủ thư điện tử, của Nguyễn. Trong thí dụ thì máy chủ này là smtp.a.org được cung cấp từ dịch vụ Internet của Nguyễn.
b. MTA này sẽ đọc địa chỉ chỗ nhận ( [Bạn phải đăng kí mới nhìn thấy link này. ] ) và dựa vào phần tên miền nó sẽ tìm hỏi địa chỉ của tên miền này, nơi có máy chủ sẽ nhận email gửi đến, qua Hệ thống Tên miền.
c. Máy chủ DNS của b.org là ns.b.org sẽ trả lời về một bản ghi trao đổi thư từ, đây là bảng ghi chỉ ra cách thức làm thế nào định tuyến cho email này. Trong thí dụ thì mx.b.org là máy chủ từ dịch vụ cung ứng Internet của Trần.
d. smtp.a.org gửi mẫu thông tin tới mx.b.org dùng giao thức SMTP, điều này sẽ phân phối lá thư đến hộp thư của Trần.
e. Khi đọc Trần ra lệnh nhận thư trên máy (MUA) của Trần, điều này tạo ra việc lấy về mẫu thông tin bằng cách áp dụng giao thức POP3.
Trong trường hợp Nguyễn không có MUA mà chỉ dùng Webmail chẳng hạn thì bước 1 sẽ không xảy ra tức là MTA của Nguyễn sẽ làm việc trực tiếp. Tương tự cho trường hợp Trần không có MUA riêng. Trước đây, nếu một MTA không thể gửi tới đích thì nó có thể ít nhất ngừng lại ở chỗ gần với chỗ nhận. Sự ngừng này sẽ tạo cơ hội để máy đích có thể nhận về các mẫu thông tin trong thời gian trễ hơn. Nhiều MTA sẽ chấp nhận tất cả mẫu thông tin từ người gửi bất kì và tìm mọi cách để phân nó về đến máy đích. Những MTA như vậy gọi là những ngưng đọng thư mở (open mail relays). Điều này khá cần thiết vì sự chất lượng liên lạc của hệ thống Internet lúc đó còn yếu. Ngày nay, do việc lợi dụng trên cơ chế hoạt động của hệ thống thư điện tử nhiều người đã gửi ra các loại thư vô bổ. Như là hậu quả, rất ít MTA ngày nay còn chấp nhận các ngưng đọng thư mở. Bởi vì các thư như vậy rất có thể là các loại thư nhũng lạm.
5. Các giao thức
a. SMTP (từ chữ Simple Mail Transfer Protocol) -- hay là giao thức chuyển thư đơn giản. Đây là một giao thức lo về việc vận chuyển email giữa các máy chủ trên đường trung chuyển đến địa chỉ nhận cũng như là lo việc chuyển thư điện tử từ máy khách đến máy chủ. Hầu hết các hệ thống thư điện tử gửi thư qua Internet đều dùng giao thức này. Các mẫu thông tin có thể được lấy ra bởi một email client. Những email client này phải dùng giao thức POP hay giao thức IMAP.
b. IMAP (từ chữ Internet Message Access Protocol) -- hay là giao thức truy nhập thông điệp (từ) Internet. Giao thức này cho phép truy nhập và quản lý các mẫu thông tin về từ các máy chủ. Với giao thức này người dùng email có thể đọc, tạo ra, thay đổi, hay xoá các ngăn chứa, các mẫu tin đồng thời có thể tìm kiếm các nội dung trong hộp thư mà không cần phải tải các thư về.
c. Phiên bản mới nhất của IMAP là IMAP4 tương tự nhưng có nhiều chức năng hơn giao thức POP3. IMAP nguyên thuỷ được phát triển bởi đại học Standford năm 1986.
d. POP (từ chữ Post Office Protocol) -- hay là giao thức phòng thư. Giao thức này được dùng để truy tìm các email từ một MTA. Hầu hết các MUA đều dùng đến giao thức POP mặc dù một số MTA cũng có thể dùng giao thức mới hơn là IMAP.
Hiện có hai phiên bản của POP. Phiên bản đầu tiên là POP2 đã trở thành tiêu chuẩn vào thập niên 80, nó đòi hỏi phải có giao thức SMTP để gửi đi các mẫu thông tin. Phiên bản mới hơn POP3 có thể được dùng mà không cần tới SMTP.
* Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy nhận hay máy gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín hiệu điện mã hoá nội dung bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận. Do đó, chỉ có nội dung hay cách trình bày lá thư điện tử là được bảo toàn. Trong khi đó, dùng đường bưu điện người ta có thể gửi đi các vật liệu hàm chứa thêm nội dung hay ý nghĩa khác. Điều này có thể rất quan trọng đối với nhiều người.
* Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không đáng kể so với gửi qua đường bưu điện.
* Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư điện tử ra đọc nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư. Đồng thời, vì mỗi người dùng thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư điện tử sẽ khó bị người ở chung đọc lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng ngược lại, các tay tin tặc xa lạ có thể xâm nhập vào hệ thống thư điện tử của cá nhân nếu như các mật mã hay các hệ thống an toàn phần mềm bị bẻ gãy.
* Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện rất nhiều lần. Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có thể lên đến hàng Gbyte như dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn. Số thư có thể dự trữ trong dung lượng này tương đương với vài bộ tự điển bách khoa.
* Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có bột antrax, thư bom, ...) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong. Ngược lại, hệ thống thư điện tử, không thể gây thương tích mà thường phải đương đầu với nhiều vấn nạn như virus máy tính, các thư nhũng lạm (spam mail), các thư quảng cáo (advertisement mail) và các thư khiêu dụ tình dục (pornography mail), đặc biệt là cho trẻ em, thì lại rất nhiều. Đối với các loại thư độc hại (malicious mail) này người dùng cần phải cài đặt thêm các tiện ích hay chức năng lọc (sẵn có trong phần mềm hay phải mua thêm) để giảm trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là không có công cụ phần mềm nào là tuyệt hảo.
* Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi nội dung lá thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến trong cả hai hệ thống bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về thông tin của hai loại này là tương đương mặc dù thư điện tử chuyển tiếp có nhiều xác suất gây nhiễm virus máy tính.
* Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự, trong hệ thống thư điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ liệu chứa nội dung các email cộng với điạ chỉ của người chủ thư điện tử. Điểm khác biệt ở đây là hộp thư điện tử sẽ có nhiều chức năng hơn là việc xoá bỏ các thư cũ.
* Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng ký qua một hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt không bao giờ trùng với địa chỉ email khác.
* Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng danh từ hộp thư điện tử hay hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần mềm email đã được đăng kí dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.
3. Các mệnh lệnh Anh ngữ để đi vào các ngăn chứa thư.
Đây thực ra chỉ là các ngăn chứa thư từ đã được phân loại theo tình trạng của các email cho tiện dùng. Người chủ thư có thể tự mình xếp loại các mail này hay chúng được xếp một cách tự động (do cài đặt hay do mặc định).
* Inbox có nghĩa là Hộp thư nhận hay Hộp thư vào: Đây là ngăn đựng các thư mới nhận về.
* Outbox có nghĩa là Hộp thư gửi hay Hộp thư ra: Đây là ngăn đựng các thư đang chờ được gửi đi. Thông thường, nếu hệ thống email hoạt động tốt thì các thư nằm trong hộp này chỉ trong thời gian rất ngắn (vài giây đến vài phút là tối đa). Do đó, ngăn chứa này thường là một ngăn trống.
* Draft có nghĩa là Ngăn nháp: Để chứa các email chưa hoàn tất hay đã hoàn tất nhưng chủ thư chưa muốn gửi đi.
* Trash, Trash can hay Deleted Item có nghĩa là Ngăn xóa: Còn có thể gọi là Thùng rác hay Ngăn thư đã xóa. Đây là chỗ dự phòng tạm thời chứa các email đã xóa bỏ trong một thời gian. Chức năng này tiện lợi để phục hồi hay đọc lại các thư điện tử cần thiết đã lỡ tay bị xóa.
* Sent, sent Messages hay Sent Item có nghĩa là Ngăn đã gửi: Nơi này dùng để chứa các thư đã gửi.
* Junk hay Bulk có nghĩa là Ngăn thư linh tinh: Đây là nơi chứa các mail đã được lọc và bị loại ra một cách tự động, còn được gọi là Thùng thư rác hay Ngăn chứa tạp thư. Thường thì nơi này sẽ chứa các thư quảng cáo, các thư nhũng lạm, các thư được gửi đến một số lượng lớn địa chỉ có cùng một nội dung, hay các loại thư độc hại ...
4. Hoạt động của hệ thống email hiện nay có thể được minh họa qua phân tích một thí dụ như sau:
a. Nguyễn dùng MUA của mình để soạn một lá thư có địa chỉ người nhận là Trần với địa chỉ là [Bạn phải đăng kí mới nhìn thấy link này. ] . Nguyễn nhấn nút Send và phần mềm thư điện tử của Nguyễn áp dụng SMPT để gửi mẫu thông tin (lá thư) đến MTA, hay máy chủ thư điện tử, của Nguyễn. Trong thí dụ thì máy chủ này là smtp.a.org được cung cấp từ dịch vụ Internet của Nguyễn.
b. MTA này sẽ đọc địa chỉ chỗ nhận ( [Bạn phải đăng kí mới nhìn thấy link này. ] ) và dựa vào phần tên miền nó sẽ tìm hỏi địa chỉ của tên miền này, nơi có máy chủ sẽ nhận email gửi đến, qua Hệ thống Tên miền.
c. Máy chủ DNS của b.org là ns.b.org sẽ trả lời về một bản ghi trao đổi thư từ, đây là bảng ghi chỉ ra cách thức làm thế nào định tuyến cho email này. Trong thí dụ thì mx.b.org là máy chủ từ dịch vụ cung ứng Internet của Trần.
d. smtp.a.org gửi mẫu thông tin tới mx.b.org dùng giao thức SMTP, điều này sẽ phân phối lá thư đến hộp thư của Trần.
e. Khi đọc Trần ra lệnh nhận thư trên máy (MUA) của Trần, điều này tạo ra việc lấy về mẫu thông tin bằng cách áp dụng giao thức POP3.
Trong trường hợp Nguyễn không có MUA mà chỉ dùng Webmail chẳng hạn thì bước 1 sẽ không xảy ra tức là MTA của Nguyễn sẽ làm việc trực tiếp. Tương tự cho trường hợp Trần không có MUA riêng. Trước đây, nếu một MTA không thể gửi tới đích thì nó có thể ít nhất ngừng lại ở chỗ gần với chỗ nhận. Sự ngừng này sẽ tạo cơ hội để máy đích có thể nhận về các mẫu thông tin trong thời gian trễ hơn. Nhiều MTA sẽ chấp nhận tất cả mẫu thông tin từ người gửi bất kì và tìm mọi cách để phân nó về đến máy đích. Những MTA như vậy gọi là những ngưng đọng thư mở (open mail relays). Điều này khá cần thiết vì sự chất lượng liên lạc của hệ thống Internet lúc đó còn yếu. Ngày nay, do việc lợi dụng trên cơ chế hoạt động của hệ thống thư điện tử nhiều người đã gửi ra các loại thư vô bổ. Như là hậu quả, rất ít MTA ngày nay còn chấp nhận các ngưng đọng thư mở. Bởi vì các thư như vậy rất có thể là các loại thư nhũng lạm.
5. Các giao thức
a. SMTP (từ chữ Simple Mail Transfer Protocol) -- hay là giao thức chuyển thư đơn giản. Đây là một giao thức lo về việc vận chuyển email giữa các máy chủ trên đường trung chuyển đến địa chỉ nhận cũng như là lo việc chuyển thư điện tử từ máy khách đến máy chủ. Hầu hết các hệ thống thư điện tử gửi thư qua Internet đều dùng giao thức này. Các mẫu thông tin có thể được lấy ra bởi một email client. Những email client này phải dùng giao thức POP hay giao thức IMAP.
b. IMAP (từ chữ Internet Message Access Protocol) -- hay là giao thức truy nhập thông điệp (từ) Internet. Giao thức này cho phép truy nhập và quản lý các mẫu thông tin về từ các máy chủ. Với giao thức này người dùng email có thể đọc, tạo ra, thay đổi, hay xoá các ngăn chứa, các mẫu tin đồng thời có thể tìm kiếm các nội dung trong hộp thư mà không cần phải tải các thư về.
c. Phiên bản mới nhất của IMAP là IMAP4 tương tự nhưng có nhiều chức năng hơn giao thức POP3. IMAP nguyên thuỷ được phát triển bởi đại học Standford năm 1986.
d. POP (từ chữ Post Office Protocol) -- hay là giao thức phòng thư. Giao thức này được dùng để truy tìm các email từ một MTA. Hầu hết các MUA đều dùng đến giao thức POP mặc dù một số MTA cũng có thể dùng giao thức mới hơn là IMAP.
Hiện có hai phiên bản của POP. Phiên bản đầu tiên là POP2 đã trở thành tiêu chuẩn vào thập niên 80, nó đòi hỏi phải có giao thức SMTP để gửi đi các mẫu thông tin. Phiên bản mới hơn POP3 có thể được dùng mà không cần tới SMTP.
(Không biết tác giả)
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.