Sunday, September 11, 2016

Tiểu sử nhạc sĩ Văn Cao

image
Nhạc sĩ Văn Cao

Nhạc sĩ Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của ông vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, NS Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc.

Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.

Cuối những năm 1930, Tân Nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý… ông tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận… và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là “Buồn Tàn Thu” vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, ông còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như“Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh Em Khá Cầm Tay”.

image

image
image

Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát “Buồn Tàn Thu”, giúp ca khúc trở nên phổ biến. 

Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, được coi là bài thơ đầu tay.

image

Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, ông rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant – nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền – và theo học dự thính tại Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Ông còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy.

Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: “Cô Gái Dậy Thì”, “Sám Hối”, “Nửa Đêm”. Đặc biệt tác phẩm “Cuộc Khiêu Vũ Những Người Tự Tử” (“Le Bal aux suicidés”) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của ông không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, ông thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

image

image
image
Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, ông viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay “Buồn Tàn Thu”, ông đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau “Buồn Tàn Thu”, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là “Thu Cô Liêu” và “Suối Mơ”. Trong đó “Suối Mơ” vốn là một đoạn của bản “Trương Chi 1” được ông phát triển thêm và cùng NS Phạm Duy hoàn tất. Bản “Trương Chi” nổi tiếng sau là “Trương Chi 2”.

image

Bên cạnh đề tài mùa thu, ông cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là “Cung Đàn Xưa” và “Bến Xuân”. Nhạc phẩm “Bến Xuân” có sự tham gia của NS Phạm Duy, nhưng về sau ông viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên “Đàn Chim Việt”. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, NS Văn Cao đã giành được thành công. “Buồn Tàn Thu” được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. “Suối Mơ”, “Bến Xuân” được Phạm Duy đánh giá là rất cao của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam.

Nhưng hai tình khúc của NS Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là “Thiên Thai” và “Trương Chi”. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, NS Văn Cao tự nhận mình là “Người sông Ngự”, ghi: “Ảnh hưởng sông nước khúc “Thiên Thai” cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!”. Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của NS Văn Cao.

image

Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, “Thiên Thai” có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ Trầm Lặng được thực hiện, “Thiên Thai” được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như “Thiên Thai”, “Trương Chi” cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thường không trình diễn: “Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ”…. Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính ông.

NS Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối.

Năm 2005, mười năm sau ngày NS Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên Văn Cao đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thành phố nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. 

“Đường Văn Cao” sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây.

Tên “Đường Văn Cao” cũng được nhiều thành phố lớn ở Việt Nam dùng đặt tên đường trong thành phố để tưởng niệm người nhạc sĩ tài hoa này.



Túy Phượng

music anime hands piano notes

Tản mạn về đồng đô la Mỹ
Tại sao lại được khen chỉ vì hoàn thành nhiệm vụ?"...
Mèo hoang dã và mèo nhà
Chiến tranh giữa người và thú: Ai sẽ thắng?
LS. Lê Thị Công Nhân: "Chúng tôi thấy hả lòng hả d...
Thực phẩm giả (fake) trong tủ lạnh
Apple ra mắt iPhone 7
Bảo vệ dữ liệu trên điện thoại di động
Tiểu sử chính thức của Mẹ Têrêsa thành Calcutta
Tản mạn về chữ "Vội"
Hoang tưởng để thành công
Chiến đấu cơ Mỹ 'bắn 208 tên lửa vẫn trật mục tiêu...
Sự phát triển của ẩm thực Mỹ gốc Á
Bánh mì và duyên nợ Việt-Pháp
Choại rừng xuống phố
Đời phù du hay đời thiên thu?
Những thị trấn ma đằng sau giấc mơ dầu mỏ
TT Obama không ngờ TC chơi xỏ ngay tại sân bay Hàn...
Di sản của Mẹ Teresa
Mẹ Teresa được phong thánh

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.