Mục
tiêu giáo dục thời điểm này được xác định là: Phát triển toàn diện mỗi cá nhân;
Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh; Phát triển tinh thần dân chủ và
tinh thần khoa học.
Hệ
thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học và ĐH, cùng với một
mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và
hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Sách giáo khoa cho học sinh.
Mô
hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng chấp
nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học
1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh
viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục.
Mặc
dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến
tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do
phần lớn ngân sách Quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách
Quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo
dục).
Nền
giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia
tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả
năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng Quốc gia...
Một buổi lễ ở Trường Petrus
Ký (Trường THPT Lê Hồng Phong ngày nay)
Triết
lý giáo dục dựa trên 3 nguyên tắc “nhân bản”, “dân tộc” và “khai phóng”, được
ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn
hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Mục
tiêu giáo dục thời điểm này được xác định là: Phát triển toàn diện mỗi cá nhân;
Phát triển tinh thần Quốc gia ở mỗi học sinh; Phát triển tinh thần dân chủ và
tinh thần khoa học.
Người dân miền Nam biểu tình
phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.
Bậc tiểu học thời Việt Nam
Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp
Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục
phổ cập (bắt buộc).
Thẻ căn cước học sinh
Trường Võ Trường Toản
Hệ
thống giáo dục trung học gồm: trung học đệ nhất cấp
Trong ảnh: Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 1972- 1973
Trường trung học Đệ nhị.
Trong ảnh: Các nam sinh Trường Võ Trường Toàn
Hệ
thống trường trung học còn có: Trung học tổng hợp, Trung học kĩ thuật
Trong ảnh: Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao.
Vào năm 1964 các trường tư
thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Trong ảnh: Lễ kỷ
niệm 100 năm thành lập của Trường Lasan Taberd 17/2/1974.
Học sinh đậu được Tú tài II
thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện ĐH, trường ĐH, và học viện
trong nước. Vì số chỗ trong một số trường có giới hạn nên học sinh phải dự kỳ
thi tuyển có tính chọn lọc rất cao.
Viện đại học Đà Lạt.
Viện Pasteur Nha Trang.
Trường Kỹ Sư Công Nghệ,
Trường Hàng Hải thuộc Trung tâm Quốc gia Kỹ Thuật.
Các
giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn
kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và
Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Buổi học hình họa tại lớp
dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Thời
điểm này, một số sinh viên bậc ĐH được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài.
Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và
Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất
Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in
sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia
Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại
học.
Vào thời điểm năm 1974, cả
nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là
chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng
Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên
tiểu học. Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học
sư phạm (2 hoặc 4 năm).Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký
hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Chỉ số lương của giáo viên
tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học
đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4
là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở
các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn
được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt
đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành
phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững
tinh thần và tư cách của nhà mô phạm.
Đề thi trắc nghiệm đã được
sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ
niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm
toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi
dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên
1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó
của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho
thích hợp.
Đầu những năm 1970, Nha
Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán
hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng
tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm
được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230.
Phong Đăng
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.