Lãnh
đạo và quản trị
Vì
điều 4 hiến pháp và sự thiếu vắng cạnh tranh chính trị, CSVN chỉ biết cai trị
độc tài và chưa bao giờ biết thật sự lãnh đạo đất nước và đưa dân tộc đi lên.
Mời quý thính giả nghe phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề:
"Lãnh đạo và quản trị" sẽ được Hương Dương trình bày để kết thúc
chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trong
cuộc tiếp xúc với cử tri Quận 1 và Quận 3 thuộc Sài Gòn vào đầu tháng 10 vừa
rồi, để biện bạch cho những thất bại trong nỗ lực chống tham nhũng của đảng cầm
quyền cũng như của bản thân mình, Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước, giải thích:
"Với
tư cách của tôi là một đồng chí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà nước thì phải
tham gia chủ trương chính sách. Cái đó dứt khoát rồi, phải làm, rất tích cực;
nhưng không thể làm trực tiếp được, tôi không thể thay quyền điều tra được. Cái
gì tôi phát hiện, về tôi kêu mấy ông chức năng, giao ngay. Tôi theo dõi, chứ
không thể bỏ qua được. Làm sao với cương vị tôi mà dẫn quân đi làm điều tra
được. Anh đội trưởng đội điều tra quận làm được, chứ tôi không làm được việc đó
đâu, phải đôn đốc anh em thôi."
Đúng
là với cương vị Chủ tịch nước, không thể đóng vai trò của một đội trưởng đội
tuần tra quận để theo dõi, phát hiện và bắt bớ những người tham nhũng được.
Không ai chối cãi điều đó cả. Tuy nhiên, có phải vì vậy mà ông có thể thoái
thác trách nhiệm của mình với tư cách một trong vài người lãnh đạo cao nhất
trong hệ thống đảng và nhà nước không?
Nhớ,
trong mấy năm vừa qua, ở Úc, Liên đảng đối lập không ngừng chỉ trích chính phủ
Lao Động là đã thất bại trong việc ngăn chận làn sóng di dân bất hợp pháp tràn
vào lãnh thổ của họ, chủ yếu trên các chiếc tàu xuất phát từ Indonesia. Năm
2012, có cả thảy 17.000 người đến Úc bằng đường biển như thế (trong đó có
khoảng 6.500 người Sri Lanka
và một số người Việt Nam ).
Trước
những sự phê phán ấy, Thủ tướng Lao Động lúc ấy, bà Julia Gillard, cũng như Bộ
trưởng Di trú Chris Bowen, tìm đủ mọi cách để biện hộ. Tuy nhiên, không có lời
biện hộ nào giống Trương Tấn Sang cả. Không ai nói, chẳng hạn, họ không thể
đóng vai các chủ tàu ở Indonesia để từ chối việc chở người di dân lậu sang Úc
hoặc họ cũng không thể đóng vai các thuyền trưởng các đội tuần duyên để hoặc
buộc các tàu vượt biên ấy không được nhập vào lãnh hải Úc hoặc kịp thời cứu
vớt những tàu bị đắm. Không. Bất chấp việc các nhân viên thừa hành làm việc ra
sao, lỗi vẫn thuộc về giới lãnh đạo cao nhất trong chính phủ.
Trở
lại với trường hợp của Việt Nam .
Dường như nhiều người, ngay cả những người thuộc giới lãnh đạo, cho công việc
lãnh đạo chỉ khoanh tròn trong phạm vi chính sách. Đã đành chính sách chiếm một
vị trí quan trọng, có khi là quan trọng nhất trong nghệ thuật lãnh đạo. Nhưng
bên cạnh chính sách, các nhà lãnh đạo cần một tài năng khác nữa: tài quản trị
(governance). Có thể nói nghệ thuật lãnh đạo bao gồm hai khía cạnh chính: chính
sách và quản trị. Có chính sách tốt: chưa đủ. Cần có khả năng quản trị để các
chính sách đúng và hay ấy được thực hiện như ý muốn.
Lâu
nay, hầu như mọi người đều thấy rõ là giới lãnh đạo Việt Nam không có
khả năng hoạch định các chính sách rõ ràng đối với những vấn đề quan trọng nhất
của đất nước. Trước nguy cơ xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải và âm mưu lũng đoạn kinh
tế cũng như văn hóa Việt Nam của Trung Quốc, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn loanh
quanh với những ứng phó vụn vặt và bất nhất. Trước những suy thoái về mọi mặt,
từ kinh tế đến xã hội, giáo dục và đạo đức, giới lãnh đạo vẫn chỉ nói suông.
Trước nạn tham nhũng đang hoành hành và tàn phá đất nước, giới lãnh đạo vẫn
không hề đưa ra được một chính sách nào đàng hoàng và có tính khả thi.
Thiếu
chính sách, giới lãnh đạo Việt Nam
hiện nay cũng thiếu cả khả năng quản trị. Nói đến khả năng quản trị là nói đến
việc xây dựng cơ chế và hoạch định tiến trình thực thi chính sách. Cơ chế và
tiến trình ấy bao gồm cả việc cai trị (rule), quản lý (management) và kiểm soát
(control). Cả ba công việc này, để có hiệu quả, cần có ba điều kiện chính: tính
khả kiểm (accountability), sự minh bạch (transparency) và sự linh hoạt. Thiếu
hai điều kiện đầu, người ta không thể làm việc hiệu quả, hơn nữa, không thể
biết là mình làm việc không hiệu quả, hoặc nếu biết, không thể biết nguyên nhân
của cái không-hiệu-quả ấy nằm ở đâu để sửa chữa. Có hai điều kiện ấy, nhưng nếu
bộ máy quá nặng nề, cồng kềnh và cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt, người ta cũng
không thể đối phó với các tình thế và khó khăn bất ngờ được.
Khi
có cả ba điều kiện nói trên, guồng máy cai trị, quản lý và kiểm soát sẽ tự vận
động và tự điều chỉnh, không cần những người lãnh đạo cấp cao nhất phải bận tâm
để mắt theo dõi đến từng chi tiết.
Ông
Trương Tấn Sang không cần phải đóng vai đội trưởng đội tuần tra tham nhũng
nhưng nếu ông có khả năng quản trị tốt, ông sẽ xây dựng được những cơ chế và
tiến trình chống tham nhũng tốt để mọi nhân viên chống tham nhũng phải làm việc
nghiêm túc; nếu không, họ sẽ bị kỷ luật hoặc bị thay thế. Đó là điều ở Tây
phương người ta đều làm được. Bởi vậy, việc một hay vài đội trưởng đội tuần tra
tham nhũng bất lực có thể là lỗi cá nhân của họ: Lỗi cá nhân, trách nhiệm cũng
thuộc về cá nhân; nhưng việc tất cả hoặc, nhẹ nhàng hơn, hầu hết các đội trưởng
đội tuần tra đều bất lực thì lại phải được xem là lỗi ở quản trị: Lỗi quản trị,
trách nhiệm thuộc về giới lãnh đạo.
Thiếu
khả năng hoạch định chính sách và cũng thiếu cả khả năng quản trị, giới lãnh
đạo Việt Nam
hiện nay làm được gì? Theo hai nhà nghiên cứu về Việt Nam , Adam
Fforde và Jorg Wischermann, họ chỉ biết cai trị (rule)! Cai trị là hình thức
thao tác quyền lực xưa cũ nhất của nhân loại: chỉ dùng quyền lực để bảo vệ
quyền lực bằng cách bắt buộc mọi người làm theo ý mình. Vậy thôi.
Đóng
tuồng vụng để tồn tại
Cuộc
vận động sửa đổi Hiến pháp tại Việt Nam kéo dài suốt năm 2013 đã kết thúc sau
cuộc bỏ phiếu của Quốc Hội vào ngày 28/11 với 486 trên tổng số 488 đại biểu tán
thành. Về phương diện hành chính, cuộc vận động chính trị thuộc loại lớn nhất
trong năm đã kết thúc, nhưng về phương diện chính trị, ảnh hưởng của nó chắc sẽ
còn lâu dài từ cả phía nhà cầm quyền đến giới trí thức độc lập và những người
bất đồng chính kiến.
Nhìn lại, hình ảnh chính xác nhất để mô tả cả cuộc vận động sửa đổi Hiến pháp 2013, theo tôi, là hình ảnh của một vở tuồng vụng.
Nhìn lại, hình ảnh chính xác nhất để mô tả cả cuộc vận động sửa đổi Hiến pháp 2013, theo tôi, là hình ảnh của một vở tuồng vụng.
Những kiểu tuồng như vậy chả có gì lạ. Chế độ độc tài nào cũng diễn tuồng như vậy. Từ năm 1945, đặc biệt từ năm 1954, ở miền Bắc và từ năm 1975, trong cả nước, đảng Cộng sản vẫn thường xuyên đóng tuồng như vậy.
Không ai hiểu tại sao, lúc đầu, giới lãnh đạo lại dám tuyên bố một cách ồn ào về chuyện không có vùng cấm trong thảo luận về Hiến pháp như vậy. Chả lẽ họ không biết dân tình bất mãn ra sao? Hơn nữa, người ta càng không hiểu tại sao họ lại vận động sửa đổi Hiến pháp để tạo cơ hội cho dân chúng, hoặc ít nhất, giới trí thức, đặt lại vấn đề vai trò lãnh đạo của đảng và vấn đề sở hữu toàn dân về đất đai như vậy? Họ sợ những vấn đề “nhạy cảm”, nhưng tại sao họ, chính họ, lại nêu những vấn đề “nhạy cảm” ấy ra cho mọi người bàn luận?
Dân
oan xuống đường - Đường Nguyễn Trãi - Thanh Xuân HN
Có cảm tưởng giới lãnh đạo Việt Nam, một, nói mà không biết mình nói gì; hai,
không hiểu được tâm lý bất mãn của quần chúng, do đó, không tiên liệu được các
phản ứng ngược khi tung ra cuộc vận động sửa đổi Hiến pháp.
Cả hai đều có một đặc điểm chung: dại dột. Nguyên nhân của sự dại dột ấy có khi không phải vì ngu đần. Mà vì hoang tưởng. Tên độc tài nào cũng hoang tưởng. Các nhà độc tài đều sống bằng sự lừa đối người khác và nạn nhân cuối cùng của sự lừa dối ấy là chính họ: Họ cũng tin vào sự dối trá của mình. Họ cũng tưởng là mọi người đều tin tưởng và ủng hộ họ.
Vở tuồng, thoạt đầu, tưởng hoành tráng, sau, biến thành tuồng hài là vì vậy.
Nhưng có khi chính cái tuồng hài ấy cũng nằm trong một âm mưu nào đó. Nói cách khác, có khi nhà cầm quyền ViệtNam
đem chính sự dại dột và lố bịch của họ ra làm một thứ vũ khí để duy trì chế độ.
Ngỡ như nghịch lý. Nhưng không phải. Để duy trì quyền lực, từ xưa đến nay, có ba thứ vũ khí tối ưu: được yêu mến, được kính phục và bị sợ hãi. Nếu chỉ có hai, ưu tiên sẽ là: được kính phục và bị sợ hãi. Nếu chỉ có một: bị sợ hãi. Ngay từ khi được thành lập, đảng Cộng sản đã sử dụng cả hai biện pháp tuyên truyền và bạo lực để dân chúng yêu mến, kính phục và sợ hãi. Bây giờ, trong xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của các phương tiện truyền thông xã hội, mọi âm mưu tuyên truyền đều thất bại, nhà cầm quyền, nói chung, không còn được yêu mến và kính trọng nữa, họ chỉ giữ lại một yếu tố duy nhất: duy trì sự sợ hãi.
Cả hai đều có một đặc điểm chung: dại dột. Nguyên nhân của sự dại dột ấy có khi không phải vì ngu đần. Mà vì hoang tưởng. Tên độc tài nào cũng hoang tưởng. Các nhà độc tài đều sống bằng sự lừa đối người khác và nạn nhân cuối cùng của sự lừa dối ấy là chính họ: Họ cũng tin vào sự dối trá của mình. Họ cũng tưởng là mọi người đều tin tưởng và ủng hộ họ.
Vở tuồng, thoạt đầu, tưởng hoành tráng, sau, biến thành tuồng hài là vì vậy.
Nhưng có khi chính cái tuồng hài ấy cũng nằm trong một âm mưu nào đó. Nói cách khác, có khi nhà cầm quyền Việt
Ngỡ như nghịch lý. Nhưng không phải. Để duy trì quyền lực, từ xưa đến nay, có ba thứ vũ khí tối ưu: được yêu mến, được kính phục và bị sợ hãi. Nếu chỉ có hai, ưu tiên sẽ là: được kính phục và bị sợ hãi. Nếu chỉ có một: bị sợ hãi. Ngay từ khi được thành lập, đảng Cộng sản đã sử dụng cả hai biện pháp tuyên truyền và bạo lực để dân chúng yêu mến, kính phục và sợ hãi. Bây giờ, trong xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của các phương tiện truyền thông xã hội, mọi âm mưu tuyên truyền đều thất bại, nhà cầm quyền, nói chung, không còn được yêu mến và kính trọng nữa, họ chỉ giữ lại một yếu tố duy nhất: duy trì sự sợ hãi.
Một ví dụ: Mới đây, tôi gặp một người quen cũ từ Việt
Hỏi tại sao, anh đáp: Vì chán. Anh biết tỏng tòng tong đó chỉ là một trò hề để bịp dân và bịp dư luận quốc tế. Nó sẽ chả đi đến đâu cả. Rồi rốt cuộc, đâu lại hoàn đấy. Đã biết vậy, còn theo dõi làm gì chứ? Anh kết luận: Mất công vô ích.
Tôi kiên nhẫn hỏi tiếp: Những người có thái độ như anh có nhiều không? Anh đáp: Nhiều. Tất cả bạn bè và người quen của anh đều nghĩ vậy và phản ứng như vậy. Họ khinh thường. Họ tuyệt vọng. Họ chán. Và cuối cùng, họ thành dửng dưng vô cảm.
Ngoài việc gây ra sợ hãi, tất cả những kẻ gây ra tội ác đều mong nhất một điều: sự vô cảm trước cái ác. Điều đó, hầu như ai cũng biết. Cái “mới” của giới lãnh đạo Việt
Nguyễn
Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.