
Khi phân tích chiến
lược và mục tiêu của Nixon và Kissinger, Hiệp định Paris 1973 đã trở thành đề
tài của nhiều bài viết, sách vở của các sử gia Mỹ. Mặc dầu vậy, động cơ, chiến
lược và chính sách của Bộ Chính trị Bắc Việt với đề tài Hiệp định Paris vẫn là
những vấn đề chưa sáng tỏ. Đảng Cộng sản đã xuất bản nhiều quyển sách, nổi bật
trong số đó là quyển Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại
Paris của Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ, và nhiều bộ tài liệu chính thức,
nhưng phần lớn các nguồn tư liệu gốc vẫn còn nằm trong văn khố Hà Nội.
Tuy nhiên, qua những
tài liệu đã được công bố, những gì xảy ra trong thời kỳ đầy biến động đó đã hiện
ra tương đối rõ. Những nguồn tài liệu được công bố cho thấy Bộ Chính trị đã thận
trọng xem xét những sự lựa chọn, cân nhắc những trường hợp có thể xảy ra trước
những diễn biến dẫn đến cao điểm được kết thúc bằng một hiệp định hòa bình.
Khi các biến cố diễn
ra, dù gặp trở ngại, họ vẫn đi theo con đường đã chọn. Sau khi ký Hiệp định
Paris, Bộ Chính trị đã tái lượng định những sự chọn lựa và quyết định từ bỏ hiệp
định ở một thời điểm sớm hơn nhiều so với những thời điểm đã được nhìn nhận từ
trước đến nay.
Phát động cuộc tổng
tấn công 1972 – quyết định gây chiến
Vào tháng 5 năm
1971, Hà Nội quyết định phát động một cuộc tấn công lớn đầu năm 1972 nhằm giành
chiến thắng trước Việt Nam Cộng hòa.
Mục tiêu quân sự của
Bộ Chính trị là phá hủy chương trình bình định và Việt Nam hóa chiến tranh.
Một khi đã đạt được những điều này, mục tiêu chính trị của Hà Nội là lật đổ Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần gồm Cộng
sản, Trung lập và Quốc gia. Chính phủ chuyển tiếp này sẽ buộc người Mỹ rút đi
và bắt tay với Bắc Việt để thống nhất đất nước.
Kế hoạch của Bộ
Chính trị vẫn giữ nguyên chính sách song hành như Hồ Chí Minh đề ra trước đó:
"đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào." Đây là chiến lược cốt lõi đã
được đơn giản hóa.
Trước khi tấn công,
Lê Duẩn đã trình bày với các tướng lãnh quân sự về cái nhìn của ông. Lê Duẩn
đưa ra hai hướng diễn biến, mỗi hướng gồm hai giai đoạn. Hướng diễn biến thứ nhất:
sau khi quân đội Bắc Việt gây tổn thất nặng nề cho lực lượng VNCH, chính quyền
Thiệu sẽ rơi vào khủng hoảng chính trị trầm trọng. Nhân dân sẽ nổi dậy đòi hòa
bình, Thiệu sẽ bị lật đổ, và một chính phủ chuyển tiếp có sự tham gia của phe Cộng
sản sẽ được thành lập. Đây là kế hoạch tổng nổi dậy mà Lê Duẩn đã ấp ủ từ lâu –
từng thất bại trong các cuộc tổng tiến công năm 1965 và 1968.
Trước cuộc tấn công,
Lê Đức Thọ cũng đánh điện cho các chỉ huy chiến trường miền Nam. Theo ông, chiến
thắng dường như đã cầm chắc. Quân đội VNCH đã mất tinh thần vì Mỹ rút quân, lại
yếu thêm nhiều vì mất đi hỏa lực yểm trợ của Mỹ.
Ông viết: "Nhiệm
vụ của cách mạng ở miền Nam là phải hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ.
Để hoàn thành nhiệm vụ đó, ta có thể chia ra làm hai giai đoạn: giai đoạn từ
khi ta phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến khi ta giành được
thắng lợi quyết định và kết thúc bằng một giải pháp chính trị; và giai đoạn từ
khi giành được thắng lợi bằng một giải pháp chính trị cho đến sau này khi thống
nhất Tổ quốc.
"Hai giai đoạn
đó gắn liền với nhau và phát triển một cách liên tục cho đến khi hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng dân tộc và dân chủ ở miền Nam." (1)
Cũng như Lê Duẩn, Lê
Đức Thọ tin rằng một cuộc tấn công quân sự thành công sẽ buộc Mỹ và chính phủ mới
ở Sài Gòn chấp nhận đòi hỏi của họ: Mỹ rút hoàn toàn và thành lập chính phủ
liên hiệp ba thành phần.
Cuối tháng 3 năm
1972, QĐNDVN mở cuộc tấn công lớn nhất của cuộc chiến. Ban đầu, Bắc Việt đạt được
thắng lợi lớn – đến đầu tháng 5, chiếm được Quảng Trị (Vùng I), trong khi Kon
Tum (Vùng II) và An Lộc (Vùng III) bị bao vây.
Khi Hà Nội có vẻ sắp
đạt thắng lợi quân sự lớn, nhằm buộc Washington phải ngừng bắn và chấp nhận những
đòi hỏi, cuối tháng 4, Hà Nội đề nghị tiếp tục đàm phán ở Paris.
Ngày 4 tháng 5, Bộ Tổng
Tư lệnh ở Hà Nội điện vào Nam: "Chủ yếu là phải giành phần thắng lợi lớn
nhất trong tháng 5 và tháng 6, tạo nên được một cục diện chiến lược mới có lợi
cho ta về mọi mặt, trên toàn bộ chiến trường miền Nam, trong thời gian đó, và
trên cơ sở đó tiếp tục tấn công địch, khuếch trương thắng lợi." (2)
Nhưng không những chỉ
cho B-52 oanh tạc Bắc Việt, ngày 8 tháng 5, Nixon còn ra lệnh thả thủy lôi,
phong tỏa cảng Hải Phòng. Đến giữa tháng 5, các đợt không kích dồn dập và phong
tỏa làm chậm nguồn tiếp tế vào Bắc Việt. Lương thực dự trữ của Bắc Việt chỉ còn
đủ trong 5 tháng, xăng dầu còn ít hơn. Dù vẫn tấn công ở miền Nam, quân Bắc Việt
đã bị thiệt hại nặng.
Tuy khắc phục được
phần nào những khó khăn tiếp tế, đến ngày 1 tháng 6, Bộ Chính trị bị buộc phải
điều chỉnh chiến lược. Trong một nghị quyết mới, họ nhận thấy cần bảo vệ miền Bắc,
tìm cách gia tăng sản xuất, và phá thế phong tỏa của Mỹ. Lực lượng phòng không
bắt đầu rút về bảo vệ hậu phương, khiến quân đội Bắc Việt mất đi sự phòng vệ
khi Mỹ oanh tạc.
Quyết định hòa bình
Đến cuối tháng 6, Bộ
Chính trị lại họp để lượng định cuộc tấn công. Họ nhận định khó có thể ép Thiệu
từ chức vì đối phương vẫn kiểm soát các thành phố chính và đa số dân cư. Khi
chiến trường rơi vào thế bế tắc, "Hà Nội đã đi đến quyết định chuyển hướng
chiến lược: 'Từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hòa bình.' Đó là một bước
ngoặt trong chỉ đạo cách mạng miền Nam."(3)
Bộ Chính trị đề ra
chiến lược mới: "Phát huy thắng lợi trên chiến trường, khai thác khó khăn
nội bộ Mỹ buộc chính quyền Mỹ chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh,
quân và dân ta giành một bước thắng lợi quan trong, đạt mục tiêu 'đánh cho Mỹ
cút' để chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên đến
thắng lợi hoàn toàn."(4)
Nhưng nguyên tắc cốt
lõi của Bộ Chính trị vẫn không thay đổi: Mỹ phải rút quân hoàn toàn, trong khi
lực lượng chính trị và vũ trang của cách mạng Việt Nam được giữ nguyên tại miền
Nam.
Ngày 19 tháng 7, Lê
Đức Thọ gặp lại Kissinger. Hai bên bắt đầu thăm dò lập trường để tìm thỏa thuận.
Sau cuộc họp, Thọ điện về Hà Nội nói rằng Kissinger dường như không muốn giải
quyết và Nixon có thể kéo dài chiến tranh đến sau năm 1972. Tình hình sẽ rõ hơn
vào cuối tháng 8, nhưng Thọ vẫn kiên trì với lập trường tối đa.
Tuy nhiên, trước áp
lực quân sự ngày càng lớn, Bộ Chính trị vạch ra chiến lược mới. Ngày 1 tháng 8,
phía Cộng sản công bố một Đề nghị 10 điểm mới để kết thúc chiến tranh. Đề nghị
10 điểm đó không đòi hỏi Thiệu từ chức, và giảm bớt quyền lực của chính phủ mới
sẽ được thành lập sau hiệp định.
Lê Duẩn phát biểu:
"Muốn đẩy nhanh cuộc đàm phán Paris, đi đến ký kết được trước tháng
11/1972 (tức trước cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ), ta cần tập trung quyết đạt cho
được mục tiêu thứ nhất lúc này là 'đánh cho Mỹ cút.' Đạt được mục tiêu thứ nhất
sẽ tạo điều kiện để hoàn thành tiếp mục tiêu thứ hai, 'đánh cho ngụy
nhào'."(5)
Bộ Chính trị quyết định
ký hiệp định ngay lập tức. Họp từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 để phân tích
tình hình và đề ra những chính sách đàm phán mới, ngày 4 tháng 10, Bộ Chính trị
điện sang Paris: "Ta cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước bầu
cử Tổng thống Mỹ (ngày 7/11/1972), đánh bại âm mưu của Mỹ kéo dài đàm phán để
vượt qua bầu cử."(6)
Hòa bình chỉ là chiến
thuật để buộc Mỹ rút, từ đó khởi động giai đoạn kế tiếp. Những gì chưa đạt được
trong hiệp định là do tình hình chiến trường, nhưng "nếu buộc được Mỹ rút
quân, ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đạt được các mục tiêu còn lại trong cuộc
đấu tranh với chính quyền Sài Gòn và giành thắng lợi lớn hơn". (7)
Việc chuyển từ Chiến
sang Hòa cho thấy Bộ Chính trị đã thừa nhận chiến dịch tấn công của họ đã thất
bại.
Với sự nhượng bộ của
Bắc Việt về một số đòi hỏi trước đó, vào tháng 10, Kissinger và Lê Đức Thọ đạt
được một thỏa thuận. Hiệp định mới giữ Nguyễn Văn Thiệu ở lại vị trí tổng thống,
nhưng vẫn yêu cầu Mỹ rút toàn bộ lực lượng, trong khi Hà Nội được phép duy trì
quân đội tại miền Nam. Tuy nhiên, khi bản dự thảo được đưa ra, Thiệu phản đối,
đặc biệt vì điều khoản cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Chính quyền
Sài Gòn, một cách chính đáng, cho rằng quyền lợi của họ đã bị tổn hại nghiêm trọng
và từ chối, không chấp nhận các điều khoản. Họ đề nghị hơn 60 sửa đổi. Nixon
quyết định ủng hộ Thiệu và cử Kissinger trở lại bàn đàm phán với Thọ để bàn về
những điều khoản cần sửa đổi.
Phái đoàn Cộng sản
phản ứng dữ dội. Hà Nội cho rằng họ đã nhượng bộ và đáp ứng một phần yêu cầu của
Mỹ. Bộ Chính trị lập tức rút lại một số nhượng bộ trước đó và từ chối bất kỳ sự
sửa đổi nào thêm. Như đã dự đoán trước, Lê Đức Thọ tin rằng Nixon thực sự muốn
kéo dài cuộc chiến.
Sau khi Nixon tái đắc
cử, hai bên gặp lại vào cuối tháng 11. Các cuộc thảo luận trở nên gay gắt và đến
giữa tháng 12, đàm phán hoàn toàn sụp đổ. Ngày 18 tháng 12, Nixon mở chiến dịch
oanh tạc Bắc Việt dữ dội để buộc Hà Nội quay lại bàn đàm phán. Không quân Mỹ
phá hủy phần lớn cơ sở công nghiệp còn lại của miền Bắc, nhưng lực lượng phòng
không của Bắc Việt đã chống trả quyết liệt, bắn hạ hơn một chục máy bay B-52.
Hà Nội tận dụng khả năng phòng không kiên cường này để tuyên bố chiến thắng khi
hai bên đồng ý tiếp tục đàm phán.
Trở lại chiến tranh
Mặc dù Hà Nội đã từ
bỏ yêu cầu lâu dài là Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ liên hiệp,
các tuyên bố công khai và tài liệu nội bộ của họ vẫn rêu rao rằng hiệp định
Paris là một chiến thắng lớn, vì đã buộc Mỹ phải rút lui. Tuy nhiên, nhiều người
miền Bắc muốn tận dụng hòa bình để xây dựng lại đất nước.
Đầu năm 1973, tạp
chí Học tập của Đảng liên tục đăng tải nhiều bài viết khẳng định rằng
ban lãnh đạo đang hướng tới việc đẩy mạnh "công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa" trên quy mô lớn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi trong hồi ký:
"Có ý kiến cho rằng trọng tâm số một lúc này là giữ hòa bình, thực hiện hòa
hợp dân tộc, tạo thế ổn định trong khoảng 5-10 năm."(8)
Nhưng Bộ Chính trị
không muốn hòa bình. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Lê Duẩn muốn quay lại chiến
tranh để thống nhất đất nước – cả sự nghiệp của ông gắn với việc chinh phục miền
Nam. Dù QĐNDVN chịu tổn thất nặng nề trong năm 1972, Lê Duẩn vẫn cho rằng lực
lượng Bắc Việt mạnh hơn quân đội miền Nam. Ông tuyên bố sẽ không để vuột mất cơ
hội mà họ đã dày công tạo dựng suốt hai mươi năm. Vì vậy, ngày 27 tháng 3, Bộ
Chính trị tổ chức một cuộc họp để lượng định 60 ngày đầu thực thi hiệp định.
Lê Duẩn bắt đầu kích
động các thành viên khác. Ông đưa ra những cáo buộc sai sự thật rằng Mỹ tuy đã
rút quân, nhưng vẫn tiếp tục can thiệp, trong khi Sài Gòn vi phạm hiệp định
nghiêm trọng bằng cách "gặm nhấm" các vùng Cộng sản kiểm soát và từ
chối thành lập chính phủ mới. Nếu không phản ứng, Hà Nội sẽ mất dần tất cả những
thành quả đã có.
Với những người cách
mạng kiên quyết, lời kêu gọi này khó thể bỏ ngoài tai. Giáp đồng tình và kêu gọi
tiếp tục chiến tranh. Cũng như Lê Duẩn, ông ta không thể chấp nhận rằng quân đội
miền Nam – dù có tiếp tế mạnh mẽ của Mỹ – có thể mạnh hơn quân đội Bắc Việt.
Sau gần ba thập niên chiến tranh, kẻ thù ngoại quốc đã rút đi. Với ông, đây là
"giai đoạn cuối cùng" của cuộc chiến.
Vào tháng 4 năm
1973, Bộ Tổng Tham mưu thành lập Tổ Trung tâm do Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng
Tấn phụ trách, với nhiệm vụ xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong
giai đoạn 1975–1976. Từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1975, Bộ Tổng Tham mưu tập
trung toàn lực vào việc soạn thảo và hoàn thiện kế hoạch này, đồng thời cập nhật
chiến lược cơ bản nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam.(9)
Nhưng chỉ Bộ Chính
trị mới có quyền quyết định tiếp tục chiến tranh. Vì một cuộc họp khác của Bộ
Chính trị đã được lên lịch vào cuối tháng 5, Giáp tiến hành các cuộc họp trước
với bộ chỉ huy tại Hà Nội và các chỉ huy miền Nam. Ngày 24 tháng 5, khi Bộ
Chính trị họp để lượng định tình hình, Giáp đến cuộc họp với quyết tâm thúc đẩy
cơ quan này đưa ra quyết định tấn công. Ông trình bày tổng quát về tình hình
quân sự, bao gồm cả những thông tin của các chỉ huy ở Đồng bằng sông Cửu Long rằng
quân đội của họ đã đẩy lui cuộc tấn công của VNCH nhằm chiếm lại vùng Chương
Thiện.
Giáp dùng điều này để
nhấn mạnh quân đội Bắc Việt có thể đánh bại quân đội VNCH, vì miền Nam không
còn sự hỗ trợ quân sự trực tiếp của Mỹ. Ông cho rằng nguyên nhân khiến VNCH chiếm
được đất chỉ vì Bắc Việt chưa phản công.
Giáp kết luận gay gắt:
"Địch cứ tiến công, lấn chiếm, mà ta thì ngồi im, có nơi còn rút lui. Nếu
cứ tiếp tục như vậy thì tình hình sẽ rất bất lợi."(10)
Kết quả là, Bộ Chính
trị thống nhất tiếp tục con đường chiến tranh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bày tỏ
quyết tâm, nhấn mạnh rằng không ai còn nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, và nhận định
cuộc chiến sẽ còn kéo dài. Theo ông, không thể dừng lại giữa chừng. Ông dự báo
tình hình miền Nam sẽ trải qua một giai đoạn bất ổn, nơi hòa bình và chiến
tranh đan xen.(11)
Để chính thức hóa
quyết định này, Lê Duẩn xoay xở để có sự đồng ý chính thức của Ban Chấp hành
Trung ương. Hội nghị lần thứ 21 được triệu tập vào cuối tháng 6, và Giáp tiếp tục
chuẩn bị một báo cáo lớn. Bản dự thảo đầu tiên của kế hoạch Tổ Trung tâm được gửi
cho ông ngày 6 tháng 6. Giáp mời các lãnh đạo quân sự từ miền Nam ra trình bày
trước Trung ương về việc đẩy lùi quân VNCH ở Chương Thiện – nhằm chứng minh rằng
dù bị cấm tấn công, nhưng lực lượng địa phương vẫn đủ mạnh để giành thắng lợi.
Khi hội nghị bắt đầu,
trong bài phát biểu khai mạc, Lê Duẩn cáo buộc Việt Nam Cộng hòa vi phạm nghiêm
trọng Hiệp định Paris, khẳng định rằng cách mạng miền Nam buộc phải tiếp tục bằng
con đường bạo lực.
Tướng Giáp, trong phần
trình bày của mình, thẳng thắn nêu lên nhiều khó khăn mà quân đội đang đối mặt,
nhưng vẫn bày tỏ niềm tin rằng quân đội Sài Gòn không phải là lực lượng bất khả
chiến bại. Quan điểm này nhận được sự đồng thuận từ các đại biểu miền Nam, củng
cố thêm quyết tâm tiếp tục đấu tranh.(12)
Ngày 6 tháng 7, Ban
Chấp Hành Trung ương Đảng chính thức thông qua đề nghị của Lê Duẩn rằng con đường
cách mạng tại miền Nam là "bạo lực cách mạng." Hiệp định Paris đã chết
– nhưng chỉ Bộ Chính Trị biết rõ điều đó.
TS George J. Veith
·
"Về Quyết định của Bộ Chính trị phát động cuộc Tổng tiến công trên ba mặt trận – quân sự, chính trị, và ngoại giao – nhằm đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của địch," ngày 27 tháng
3 năm 1972, trong Văn Kiện Đảng, Toàn Tập, Tập 33, 1972 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004), tr. 213.
·
"Điện số 301 của Bộ Chính trị," ngày 4 tháng 5 năm 1972, trong Văn Kiện Đảng, Toàn Tập, 1972, tr. 265.
·
Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới, 1995), tr. 240.
·
Ngoại Giao Việt Nam: 1945–2000 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002), tr. 251
·
Đoàn Huyên, "Đánh thắng Mỹ: Vừa đánh vừa đàm," trong Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004), tr. 138–139.
·
Lưu Văn Lợi, Lê Đức Thọ–Kissinger, tr. 303.
·
Võ
Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong Mùa xuân
toàn thắng (Hà Nội: Nhà xuất bản Thế Giới, 2002), tr. 48. Không rõ Đại tướng Giáp đang nói đến người Việt Nam hay Chu Ân Lai, người đã đề nghị cách tiến hành này trong một cuộc họp với Lê Duẩn.
·
Trung
tướng Lê Hữu Đức, "Xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm," Quân Đội Nhân Dân, ngày 9 tháng 3 năm 2005.
·
Võ
Nguyên Giáp, Tổng hành dinh, tr. 67.
·
Võ
Nguyên Giáp, Tổng hành dinh, tr. 64.

No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.