
Là người phụ nữ gốc
tị nạn đầu tiên ngồi vào ghế Ủy ban Công bằng Lao động của Úc, Trần Thị Oanh kể
về chuyện cuộc đời bà đã "bắt đầu lại" trên con thuyền vượt biển cùng
cha mẹ sau chiến tranh.
Theo số liệu từ Liên
Hợp Quốc, đến khi chương trình tị nạn Việt Nam chính thức kết thúc vào năm
1995, tổng cộng đã có 2.164.000 người rời bỏ quê hương, với đỉnh điểm là từ năm
1980 - 1989, có tới 450.000 người vượt biên.
Gia đình của Oanh
cũng ra đi trong khoảng thời gian này. Là con út trong gia đình có tám anh chị
em, việc tổ chức cho cả gia đình ra đi vào cùng lúc là điều khó khăn. Cha bà
còn lo ngại rằng người Tây sẽ không tin một gia đình có đông con đến như vậy
nên ba anh chị của bà được gửi đi trước cùng họ hàng.
"Anh Hai tôi đi
cùng đợt với bà ngoại và cậu. Do anh bị bệnh tim nên cha tôi muốn anh đi trước
để được tiếp cận nền y tế của phương Tây, còn cha mẹ tôi lúc đó vẫn chưa quyết
định rời đi vì họ vẫn muốn ở lại gắn bó với mảnh đất tổ tiên.
"Nhưng cuộc sống
ngày càng khó khăn. Gia đình bên nội tôi sở hữu đất đai và thuyền đánh cá nhưng
một phần đã bị chính quyền cộng sản trưng thu, khiến việc kiếm sống trở nên khó
khăn. Dì dượng tôi bên nội bị đưa vào trại cải tạo nên cha tôi không muốn bản
thân mình hay con cái phải chịu cảnh tương tự. Mẹ tôi thì muốn đoàn tụ với ngoại
và anh chị tôi. Vậy nên cả nhà đã quyết định rời đi vào năm 1982."
"Chúng tôi vượt
biên vào thời điểm bị kiểm soát rất gắt gao, khó đi trót lọt," bà Oanh kể
lại.
'Cha tôi là thuyền trưởng con tàu'
Là một ngư dân lành
nghề, cha của Oanh đã tự tổ chức chuyến vượt biên cho gia đình năm người và một
số quen trên chiếc tàu đánh cá dài độ 15 mét.
"Khi đó tôi chỉ
mới hai tuổi nên không nhớ được nhiều, cha mẹ kể rằng gia đình mình khá may mắn,
suôn sẻ và an toàn. Chúng tôi cuối cùng đã đến được nơi cha tôi muốn là
Malaysia, chứ không nhắm đến thẳng Úc hay Mỹ vì ông nói đó không phải đường đi
an toàn," bà thuật lại.
Cha của bà sau đó đã
sắp xếp một con tàu đợi sẵn trong đêm, ông phủ một tấm bạt lên chiếc đèn xanh
làm tín hiệu. Bên cạnh đó, ông cũng đã chuẩn bị sẵn những gậy gỗ được sơn vẽ
trông giống như súng để giả làm cướp biển nếu bị hải tặc chặn đường cướp bóc.
Vì đông anh em nên
cha mẹ bà đã phải vật lộn để đưa được năm anh chị em bà ra đến chỗ thuyền đậu.
Oanh được cho uống thuốc ngủ trước chuyến đi nhưng bà sau đó đã thức giấc vì
sóng vỗ vào người.
"Cha đã ẵm tôi
và người anh kế tôi từ bờ ra con thuyền trong khi mẹ thì bồng bế, dắt díu ba
người chị của tôi. Nhưng một trong số các chị đã khóc lóc đòi quay về vì có vẻ
việc lội ra biển khi sóng vỗ mạnh là quá sức với đứa bé sáu tuổi như chị.
"Vậy là cha tôi
vội vã chạy đi giải quyết cô con gái đang quay trở lại bờ và cả tôi, đứa vừa tỉnh
dậy và không muốn bị vác trên vai. Cuối cùng, ông đã dẹp yên được đám chúng tôi
và bế cả ba ra thuyền. Đó rõ ràng không phải chuyện dễ dàng với ông, nhất là
khi phải nhanh chóng nhổ neo rời đi để tránh bị phát hiện," bà Oanh kể lại.

Trên đường đi, thuyền
của bà đã đụng độ cướp biển như trong tính toán của cha bà. Nhưng nhờ sự nhanh
trí của ông, thuyền của gia đình bà đã dọa được họ đi.
"Cha tôi đã lùa
đàn bà và trẻ nhỏ nằm xuống trốn còn những người đàn ông thì đứng quanh tàu,
tay lăm le và giương giương những khẩu súng giả. Đó là mánh khóe và thật may
chúng tôi đã đuổi hải tặc thành công.
"Tôi nghĩ cha mẹ
tôi đã cố gắng làm cho chuyến vượt biên đó nhẹ nhàng nhất có thể trong ký ức
chúng tôi. Nhưng bây giờ khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao cha mẹ tôi không cảm
thấy kinh hoàng và sợ hãi cho được, nhất là cha tôi phải gánh vác bao nhiêu
sinh mạng.
"Vậy mà khi kể
lại mọi chuyện, cha tôi đã cười đùa rằng ông vừa phải chỉ đạo mọi người, vừa
cân não theo dõi hành động của bọn cướp biển trong khi ngồi lên người tôi để
ngăn không cho tôi chồm dậy vì tôi quá loi nhoi. Có lẽ cha mẹ muốn chúng tôi chỉ
nhớ những ký ức tốt đẹp, không bị ám ảnh hay sợ hãi," bà Oanh nhớ lại.
Cuối cùng, gia đình
bà cũng cập bến Malaysia và có thời gian ở trại tị nạn Sungai Besi của UNHCR
trong khoảng một năm trước khi được định cư tại Úc vào năm 1983.
Đơn hàng lúc nửa đêm
Với sự giúp đỡ từ
chính phủ Úc, cuối cùng gia đình bà Oanh đã chuyển đến sống lâu dài ở West End,
một vùng ngoại ô khác ở thành phố Brisbane. Nhưng đời sống vẫn còn rất khó
khăn, cha bà ngư dân và cũng biết làm nông nhưng không có đất để trồng trọt.
"Ông cũng thử
đi biển một thời gian nhưng việc đánh bắt cá ở Úc rất khác ở Việt Nam, nhất là
ông đi biền biệt vài tháng trời, để lại một mình mẹ tôi chăm nom chúng tôi. Sau
một thời gian, cha tôi không thể tiếp tục bám biển vì ông bị viêm phổi do khí hậu
ở Queensland dù trong vùng nhiệt đới nhưng vẫn rất lạnh so với Việt Nam.
"Mẹ tôi sau đó
thử đi làm ở các nhà máy và một số nơi nhưng cũng không thể trụ được lâu dài vì
xí nghiệp khá xa nhà, trong khi mấy đứa tôi còn quá nhỏ không ai trông nom. Cuối
cùng, bà đành nhận hàng về may và dần dà, nhà tôi trở thành một xưởng
may," bà Oanh nhớ lại.
Là út trong gia
đình, Oanh hay được mẹ nhờ xỏ chỉ vào máy may vì có ngón tay nhỏ và đôi mắt
sáng. Bà cũng làm những công đoạn đóng gói hàng, như lộn áo đúng mặt, xếp từng
lô 20 chiếc.
Bà Oanh vẫn nhớ gia
đình bà thường nhận đơn hàng vào nửa đêm, có khi lên đến cả trăm chiếc và buộc
phải may xong trong một hoặc hai ngày. Oanh không thể ngủ đủ giấc để đi học và
sau khi tan lớp, bà phải về ngay nhà để giúp mẹ.
Vào năm 1988, nhân dịp
kỷ niệm 200 năm người Anh phát hiện ra lục địa Úc, đánh dấu sự khởi đầu của
công cuộc thuộc địa hóa, chính phủ đã thực hiện một đợt ân xá đối với các đơn
xin nhập quốc tịch. Vì vậy, việc trở thành công dân Úc vào năm 1988 dễ dàng hơn
rất nhiều so với thời gian trước và so với hiện tại.
"Tôi cố làm mọi
thứ để đảm bảo rằng gia đình mình nộp đơn xin quốc tịch vào thời điểm đó và
cũng động viên cô chú dì dượng làm tương tự. Tôi nghĩ tôi có được nhận thức như
vậy nhờ vào việc xem báo đài, tôi luôn cảm thấy có trách nhiệm với gia đình,
giúp họ hướng ra thế giới bên ngoài để hòa nhập vào xã hội Úc," bà Oanh nhớ
lại.
Chuyện có được quốc
tịch không chỉ để gia đình bà được hưởng chế độ an sinh xã hội, được bảo vệ quyền
lợi của một người lao động như những công dân khác, mà sâu xa, đó là tấm
"thẻ bài an toàn" để gia đình bà có thể trở về thăm quê hương.
"Một số cô chú,
cậu dì trong gia đình bà rất muốn trở về quê nhà khi Việt Nam mở cửa vào năm
1986. Tuy nhiên, để đảm bảo việc trở về an toàn và có thể quay lại Úc, việc nhập
quốc tịch trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
"Tôi nhớ lúc đó
bà nội tôi đang bệnh nặng nên cha tôi muốn về thăm, nhưng ông có lẽ đã lo sợ
nên đã không trở về vào thời điểm đó. Tới tận 10 năm sau ông mới quay lại quê
hương. Lúc bấy giờ bà đã mất rồi," bà Oanh kể.
Nơi bà Oanh làm việc
là tòa án giải quyết tranh chấp quan hệ lao động, giúp nhân viên và chủ lao động
giải quyết các vấn đề tại nơi làm việc.
"Tôi rất may mắn
trong suốt sự nghiệp của mình khi tìm được công việc mà tôi trân trọng và có những
người dẫn dắt giỏi luôn động viên, hỗ trợ mình. Tôi có niềm đam mê trong vấn đề
công lý xã hội, đảm bảo sự coi trọng đối với tất cả công nhân cũng như muốn
giúp đỡ những người lao động."
Dù không phải định
rõ hướng đi sau tốt nghiệp trung học nhưng Oanh đã chọn theo ngành luật vì mẹ
bà nói "con có tài tranh biện rất giỏi".
"Tôi quan tâm
nhân quyền và tôi vẫn nhớ cha mẹ mình đã không được trả công xứng đáng trong những
năm tháng nhận hàng về may. Không có một thời điểm cụ thể nào khiến tôi nghĩ:
đây là những gì tôi muốn làm trong đời mình.
"Tôi chỉ hiểu
rõ một điều giản đơn: người lao động cần được đánh giá công sức đúng, được đảm
bảo phúc lợi và an toàn, đó là những gì ảnh hưởng đến tôi và điều tôi quan tâm.
Tôi làm những điều mà tôi giỏi và tôi thực sự quan tâm đến giá trị lao động và
sự công bằng," bà Oanh chia sẻ.
Trong một khoảng thời
gian dài, Oanh đã không gọi mình là "thuyền nhân" hay "người tị
nạn" mà chọn dùng cụm từ "người nhập cư". Bà giải thích với BBC rằng,
người tị nạn, ngay cả ở Úc hay ở Anh, không phải lúc nào cũng được chào đón.
Mọi chuyện dễ dàng
hơn khi bà nói mình là người di cư sang Úc và người ta có thể nghĩ bà là người
Nhật, Hàn hay Trung cộng, vì người nhập cư về lý do kinh tế sẽ được đón nhận tốt
hơn là từ Chiến tranh Việt Nam.
"Tâm lý chung về
thuyền nhân hồi ấy vẫn chưa tích được tích cực. Nhưng tôi rất may mắn khi đã chạm
đến đỉnh cao sự nghiệp, có vị trí xã hội ổn định. Đó là lý do vì sao tôi có thể
nhận mình là thuyền nhân, là người tị nạn và thoải mái hơn trong việc kể cho mọi
người nghe câu chuyện của gia đình tôi và có thể tự hào nói: đây là cách tôi cố
gắng và đóng góp cho nước Úc.
"Vì vậy, không
có lý do gì chúng ta không giang tay chào đón những người tìm kiếm nơi chốn an
toàn trên đất Úc. Nói vậy không có nghĩa bạn cần phải trở thành gương mặt tiêu
biểu, nổi danh thì mới có thể đóng góp cho xã hội mà có thể xây dựng xã hội từ
những việc bình thường," bà Oanh nêu ý kiến.

Lúc bà Oanh làm ủy
viên của Ủy ban Công bằng Lao động thì cha mẹ bà đã qua đời nhưng bà nói rằng:
vốn dĩ cha mẹ bà đã "vô cùng tự hào" về bà cũng như các anh chị.
"Dù cha mẹ đã
ra đi và không chứng kiến được khoảnh khắc tôi được bổ nhiệm làm ủy viên, tôi
tin hai người luôn tự hào về con cái. Không phải vì chúng tôi đạt được điều gì
lớn lao trong sự nghiệp mà hơn vậy, chúng tôi xây dựng được cuộc đời, gia đình
cho riêng mình.
"Chúng tôi
không thường xuyên nhắc lại chuyện cũ, nhưng tôi biết cha mẹ đã hy sinh rất nhiều
cho chúng tôi, với mong muốn giản đơn là để chúng tôi được an toàn, được sống
bên nhau và có cơ hội để phát triển.
"Mẹ tôi đã rất hạnh phúc và tự hào khi tôi sinh bé đầu lòng vì với bà, điều đó có nghĩa là tôi đã yên bề gia thất, có cuộc sống riêng vững vàng tại Úc," bà Oanh nghẹn ngào nhớ lại.

No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.