Cách
đây mấy ngày, tôi có dịp chuyện trò với một đồng nghiệp chuyên dạy về phương
pháp giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài (TESOL, Teaching English to
Speakers of Other Languages). Chị thường đi dạy trong các lớp Thạc sĩ tại Việt Nam cũng như nhiều nước khác ở châu Á. Tôi hỏi
chị về các sinh viên Việt Nam .
Chị rất khen họ. Rằng phần lớn đều học hành một cách chăm chỉ. Rằng phần lớn
đều gặp khó khăn trong việc nghe và nói nhưng khả năng đọc và viết thì rất khá.
Rằng phần lớn đều thân thiện, lịch sự và lễ phép với các thầy cô giáo. Nói
chung, ấn tượng của chị về họ đều rất tốt. Chị khen họ hơn sinh viên của bất cứ
nước nào khác.
Tuy
nhiên, sau khi khen ngợi một cách nồng nhiệt, chị hơi khựng lại một chút, rồi
băn khoăn: Chị không hiểu tại sao tất cả (chị nhấn mạnh: TẤT CẢ) các sinh viên
Việt Nam, trong đó, có khá nhiều người đã và đang dạy tiếng Anh trong các
trường trung học, lại thường có cái nhìn hết sức tiêu cực về tình hình dạy
tiếng Anh cũng như về tình hình giáo dục Việt Nam nói chung. Tất cả các bức
tranh họ vẽ ra đều đen tối. Lớp học thì đông. Động cơ học tập của học sinh khá
yếu. Tài liệu giảng dạy cũ kỹ. Phương pháp giảng dạy lạc hậu. Do đó, kết quả
thường rất ít: Phần lớn học sinh, sau sáu bảy năm học ở trung học, đều không
thể nghe và nói tiếng Anh được.
Với
người bạn đồng nghiệp người Úc của tôi, những nhận xét tiêu cực về nền giáo dục
của các sinh viên Việt Nam
là một hiện tượng rất lạ. Ngoài Việt Nam ,
chị cũng thường xuyên dạy học tại các nước khác, từ Singapore
đến Malaysia ,
Thái Lan và Trung Cộng. Ở các nước ấy, hầu hết các sinh viên đều có cái nhìn
khá lạc quan, thậm chí, đôi khi, có vẻ tự hào về nền giáo dục nước họ. Không ở
đâu sinh viên lại bi quan như ở Việt Nam .
Người
bạn đồng nghiệp của tôi lại hỏi tiếp: Sau khi tốt nghiệp các lớp về phương pháp
giảng dạy của Úc, họ có hy vọng sẽ thay đổi tình hình giáo dục, ít nhất là
trong bộ môn tiếng Anh, tại Việt Nam hay không? Tất cả đều trả lời:
Không. Họ cho những khó khăn trong việc dạy học tại Việt Nam không phải chỉ ở trình độ của các thầy cô
giáo mà còn ở môi trường giáo dục chung của Việt Nam .
Chị nhận xét: Rõ ràng họ không
những bi quan mà còn tuyệt vọng. Chị hỏi tôi: Tại sao như vậy? Tại sao ở một
đất nước có vẻ như đang phát triển rất nhanh mà các sinh viên, tức thành phần
trí thức, lại có cái nhìn bi quan và tuyệt vọng đến như vậy?
Tôi
đáp: Đó là một thực tế. Quả thật nền giáo dục tại Việt Nam đang bị bế
tắc. Bế tắc từ chính sách đến các khâu thực hiện và thực hành. Không những chỉ
trong bộ môn tiếng Anh mà hầu như ở tất cả các môn học khác cũng đều vậy: thất
bại. Học sinh bị nhồi nhét quá nhiều những thứ kiến thức cũ kỹ và lạc hậu. Môi
trường giáo dục lại không tốt cho việc phát huy óc sáng tạo và khả năng tự học
cũng như tự nghiên cứu của học sinh và sinh viên.
Người
bạn đồng nghiệp của tôi, sau đó, nêu lên hai nhận xét mà tôi rất tâm đắc:
Thứ
nhất, sự thất bại của một số học sinh trong lớp có thể xuất phát từ nhiều lý
do, nhưng lý do quan trọng nhất là từ kiến thức và kỹ năng giảng dạy của các
thầy cô giáo; nhưng sự thất bại của hầu hết các học sinh ở tất cả các trường
thì lại có nguyên nhân từ nền giáo dục; trong khi đó, sự thất bại của cả nền
giáo dục thì lại có nguyên nhân sâu xa từ các chính sách của nhà nước, trong
đó, có cả vấn đề thể chế chính trị.
Thứ
hai, người bạn đồng nghiệp của tôi lý luận tiếp: Nếu nguyên nhân sâu xa nằm ở
thể chế chính trị thì để thay đổi hiện trạng giáo dục, người ta phải nhắm đến
việc thay đổi hoặc cải thiện thể chế chính trị. Nhưng ở đây, chị lại bắt gặp
hai hiện tượng nghịch lý: Một mặt, các sinh viên của chị đều tránh né nói
chuyện chính trị, hoặc nếu nói, cũng không thể hiện một tầm nhìn nào thực sự
sâu sắc và có tính chiến lược. Phần lớn chỉ dừng lại ở mức thở than. Mặt khác,
hầu như tất cả đều chỉ nghĩ đến bản thân mình. Khi chị hỏi: Bi quan như
vậy, tại sao các sinh viên lại chịu bỏ một số tiền khá lớn để theo học các
trường quốc tế, tất cả đều trả lời có ba lý do chính: Một là để nâng cao tiếng
Anh; hai là để học tập được các phương pháp giảng dạy mới từ Tây phương; và ba
là để có một mảnh bằng quốc tế nhằm dễ xin dạy ở các trường lớn và lương cao.
Không có động cơ nào gắn liền với hy vọng cải thiện giáo dục cả.
Chị
so sánh với các sinh viên Úc: Thứ nhất, hầu hết các sinh viên Úc đều không có
tâm trạng bi quan như vậy; thứ hai, trong các buổi thảo luận, sinh viên Úc
không những chỉ quan tâm đến các phương pháp giảng dạy hay hiệu quả của việc
giảng dạy mà còn để ý đến các chính sách giáo dục của chính phủ cũng như của
các đảng phái đối lập và họ cũng thường có một thái độ rõ ràng về các chính sách
ấy.
Thật
ra, những nhận xét của người bạn đồng nghiệp, với tôi, không có gì mới lạ. Tôi
biết tất cả những điều đó. Hầu hết người Việt Nam cũng đều biết rõ những điều đó:
Sự bi quan và tuyệt vọng của mọi người đối với tình hình giáo dục cũng như tình
hình đất nước nói chung. Tuy nhiên, nếu sự tuyệt vọng đối với viễn ảnh giáo dục
hay đất nước là một hiện tượng đáng buồn thì thái độ không quan tâm đến chính
trị và chỉ nghĩ đến bản thân mình của phần lớn giới trí thức lại là một hiện
tượng rất đáng lo lắng: Đó là sự tuyệt vọng đối với tình hình chung của đất
nước.
Người
ngoại quốc, khi nhận định về Việt Nam , vẫn có sự dửng dưng của một kẻ
ngoại cuộc. Với chúng ta, người Việt Nam , đối diện với những sự tuyệt
vọng ấy, bao giờ cũng thấy nhói lên trong lòng những cảm giác xót xa.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.