Mới
đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về hai câu
thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là hai câu lục bát:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...
Ngay từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định (1934 - 1937), tôi đã được đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài thơ tứ tuyệt:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà
Thọ Xương,
Mịt mù bãi cát màn sương,
Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..
Chùa Thiên Mụ
Thiên Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là tên
một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ (tức Hà
Nội). Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những ai sinh
trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng chọn địa danh
Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa danh Trấn Vũ mới đúng
sự thật.Bản thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy: trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn về một đề tài liên can tới văn học sử chúng ta cần phải khách quan và tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau đây.
Chùa Trấn Vũ
Trước hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một tổng
thể gồm 4 địa danh: Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn địa
danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long, tức Hà Nội
cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn
cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng
Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng
Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt là làng Yên Thái chuyên nghề làm
giấy bản: trong làng suốt ngày vang tiếng chày giã bột giấy của nhân dân.
Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên can tới một vùng nhất định là vùng
ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa
Thiên Mụ thì làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của
huyện Thọ Xương, một nơi cách xa Huế hàng nghìn
dặm?
Nghề làm giấy ở làng Yên Thái - phủ Tây Hồ - Hà Nội xưa
Đọc bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác ở
đâu trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông (hay bà?) ta đang ngụ ở một nơi
trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái không xa lắm nên mới
nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày giã bột giấy của dân làm
giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ viết bài này từng cư
ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường Quan Thánh qua trường
Bưởi (tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là trường Chu Văn An), tới Vườn Ươm
Cây của Thành Phố Hà Nội (vì thế con đường mới mang tên Pépinière) rồi tới các
làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có
thể thấy Vườn Ươm Cây và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài
thơ thuật rằng mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở
bờ hồ đồng thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột
giấy của dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa.
Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì
bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng một bài
thơ khác khởi đầu như sau:
Trống canh năm gà vừa gáy sáng,
Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!
Ngắm phong cảnh đẹp vô cùng:
Hỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!
Tác giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói tiếng
gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm: có lẽ tiếng
gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm chăng? Vì thế tác giả
mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm canh! Đây là một nghệ thuật
chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn, có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ
của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm
đâu! Chẳng trách có người đã hiểu lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup
of Thọ Xương (bouillon de poulet de Thọ Xương)!
Tiếng chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây xúc
động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ Trung Hoa,
ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi chuông từ chùa Hàn San
vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài thơ trứ danh trong đó có hai
câu:
Cô Tô thành ngoại Hàn San
Tự
Dạ bán chung thanh náo khách thuyền!
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)
Hồi chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất thường
như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San: đó chỉ là hồi chuông được gióng
lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang có chuyện ưu tư hay phiền
não nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi đời trần tục này đều là vô
thường!
Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!
Tác giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể
quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông (hay bà) ta đã chú tâm đến hồi chuông này.
Có thế thôi!
Dựa trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau: tác giả vừa thức
dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc trước nhà la đà
trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa Trấn Vũ vang dội cùng
lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ
"Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính cầm canh báo cho ai nấy biết rằng
canh năm tới rồi!". Tác giả nhìn về phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy
sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng
chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt
nước Hồ Tây lóng lánh như một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác
bốn câu lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày nay.
a) Sự biến chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm
thuộc địa (1863) rồi đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1884).
Lợi dụng tình trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần
dần biến chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế.
Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng , Nam
Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của
những thành phố này thay đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu
cựu học cảm thấy nhớ tiếc thời đất nước còn tự chủ: thời Hà Nội còn gọi
là Thăng Long với những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ
tuyệt "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói
lên tâm trạng hoài cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục
quốc. Nhưng sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... của các phong trào duy tân như Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như Hàm Nghi,
Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã chán nản, chua chát
ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt. Thí dụ: Cụ Tú Trần Kế Xương trong
mấy câu:
Vợ lăm le ở vú!
Con tấp tểnh đi bồi!
Khách hỏi nhà Ông đến:
Nhà Ông đã bán rồi!
b) Sự biến chuyển thứ hai xẩy ra trong những năm đầu của
thập kỷ 1930. Sau khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng và của
Đảng Cộng Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp
dụng chính sách "lập lờ đánh lận con đen" với hy vọng ru ngủ nhân dân
hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp chính,
Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân
học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên
vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh,
định chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu
tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải là cải
cách nửa vời, giả dối! Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"
bị coi như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm
quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư "tân
học" để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức hí
họa trong đó sáu cụ "Thượng mới", quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng
lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông
Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục bát:
Gió đưa cành trúc la đà
Một thuyền chật ních bài
ngà thượng thư ...
Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" trước kia được coi là biểu tượng
của thái độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ
thủ cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!
c) Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Mụ.
c) Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Mụ.
Ba mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ và
những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên Xô tan rã,
đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu niên không biết
gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam . Nhiều người nói tiếng Việt còn
không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh "Gió Đưa Cành Trúc La
Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ. Nếu tra tự điển
để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại như tác giả bài phiếm luận
nói trên đăng trên internet đã chứng minh một cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta
có thể nghĩ rằng "la đà" là một đàn la và lạc đà rồi suy luận rằng
cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì
được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông đồng của chùa giống như chuông điện chỉ
cần bấm là kêu leng keng, còn canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà
trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó
để làm bài thơ trào phúng sau đây:
Roi tre vun vút vung ra:
Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...
Vợ Trời giáng một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh
xương gà Tầu!
Nếu dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên không có
đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam , thì tôi nghĩ rằng cũng tội
nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như
ông, cha của họ!
Kẻ đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông, cha của
các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền
đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà chúng ta đã hấp
thụ.
Thiên phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đa” đã
giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta.
Chúng ta không nên trì hoãn nữa: cần phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn
chỉnh tình trạng này./.
VŨ QUỐC
THÚC
(Paris )
(
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.