Trong
các nhà phê bình Việt Nam
trước đây, người được khen là nhạy cảm nhất hẳn là Hoài Thanh. Quả thực, trong
cuốn Thi nhân Việt Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1942, Hoài Thanh
(với sự cộng tác ít nhiều của Hoài Chân) đã chứng tỏ một năng lực cảm thụ đặc
biệt tinh tế: trong hàng trăm người làm thơ ở thập niên 1930, ông đã chọn ra
được những người tài hoa nhất; ở những người tài hoa ấy, ông đã phát hiện được
những khía cạnh nổi bật nhất; và ở mỗi khía cạnh, ông dẫn ra được những bài thơ
hoặc những câu thơ tiêu biểu nhất.
Nhiều
bài viết ngắn, rất ngắn của Hoài Thanh, cả hơn nửa thế kỷ sau, vẫn chưa có
người vượt qua nổi. Bao nhiêu người, sau Hoài Thanh, viết về Lưu Trọng Lư, vẫn
không thoát ra khỏi ý niệm về chất "sầu" và "mộng"; viết về
Nguyễn Nhược Pháp, không thoát ra khỏi ý niệm về nụ cười hiền lành và duyên
dáng đằng sau các cảnh vật được mô tả; viết về Vũ Hoàng Chương, không thoát
khỏi ý niệm về cái say; viết về Nguyễn Bính, tình quê và hồn quê; về Vũ Đình
Liên, lòng hoài cổ; và về Thâm Tâm, cái rắn rỏi và gân guốc trong câu thơ đi
liền với chút "bâng khuâng khó hiểu của thời đại", v.v... Tất cả
những điều ấy đều đã được Hoài Thanh phát hiện rất sớm, trong Thi nhân
Việt Nam .
Đó quả là những phát hiện quan trọng và thú vị, đòi hỏi rất nhiều tài năng.
Tuy
nhiên, để tiến hành những công việc phát hiện ấy, Hoài Thanh có không ít thuận
lợi. Hầu hết những nhà thơ được ông tâm đắc đều thuộc một khuynh hướng sáng tác
giống nhau: lãng mạn. Nhà phê bình, như thế, đã có sẵn những tiêu chuẩn bình
giá khá rõ ràng. Những tiêu chuẩn ấy, gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn, đã được
nghiên cứu tường tận ở Tây phương, trong đó, có nhiều điểm đã trở thành phổ
thông, được giảng dạy cả trong chương trình trung học thời ấy. Nhiệm vụ của nhà
phê bình, do đó, chỉ còn giới hạn vào việc áp dụng những tiêu chuẩn thẩm mỹ có
sẵn để đánh giá từng tác phẩm cụ thể. Nếu chủ nghĩa lãng mạn đề cao cái
tôi hơn cái ta, cá nhân hơn tập thể, cảm xúc hơn lý trí, tưởng tượng hơn
hiện thực, thiên nhiên hơn đời sống đô thị, sự phóng túng hơn là kỷ luật,
v.v... thì rõ ràng thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Chế Lan
Viên... sẽ được xem là có nhiều yếu tố sáng tạo và đáng được yêu mến hơn cả.
Cái
hạn chế của Hoài Thanh là ông chỉ tinh tế với dòng thơ lãng mạn, một dòng
thơ, nhờ những sự cổ vũ nhiệt liệt của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, chủ yếu trên báo Phong
Hoá và Ngày Nay, đã trở thành tương đối quen thuộc thời bấy giờ.
Nhưng Hoài Thanh lại không tinh tế đủ để tiên đoán sức sống mãnh liệt trong
dòng thơ tượng trưng (symbolism) vừa mới manh nha vào cuối thập niên 1930, vài
ba năm trước khi ông hoàn tất cuốn Thi nhân Việt Nam . Chính vì
thế hầu hết các nhà thơ nỗ lực vượt ra khỏi phạm trù lãng mạn để mon men đi vào
thế giới tượng trưng, nghĩa là những nhà thơ giàu khả năng sáng tạo và đi xa
nhất trong phong trào Thơ Mới đều bị Hoài Thanh hoặc phỉ báng hoặc chỉ
chiếu cố lấy lệ: Bích Khê, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử và Nguyễn Xuân Sanh.
Có
thể nói Hoài Thanh chỉ thắng ở ván bài hiện tại mà lại thua, hơn nữa, thua
đậm ở ván bài tương lai. Ông đủ tinh tế để thấy hoa nhưng lại không đủ tinh tế
để thấy mầm. Ông thấy rõ hơn ai hết những gì ai cũng thấy, nhưng lại không thấy
được những gì người khác chưa nhìn thấy. Bởi vậy, không có gì lạ khi, vào đầu
thập niên 1940, khi những nỗ lực vượt khỏi chủ nghĩa lãng mạn ngày càng
bộc lộ mạnh mẽ, Hoài Thanh rất nhanh chóng trở thành một kẻ bảo thủ, thậm chí,
phản động trong lãnh vực văn học. Cuốn Thi nhân Việt Nam càng được đề cao, thơ ca Việt Nam càng quanh
quẩn mãi trong khuynh hướng lãng mạn cuối mùa. Chính vì thế, phải tốn rất nhiều
thời gian người ta mới nhìn thấy hết tầm vóc của những tài năng như Bích Khê,
Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng và Nguyễn Xuân Sanh. Những khám phá muộn màng ấy chỉ
có lợi cho lịch sử nhưng lại không còn chút tác động nào trong sự phát triển
của văn học vì chúng xuất hiện khi bản thân khuynh hướng sáng tác tượng trưng
và ngay cả siêu thực không còn là những sự độc đáo nữa.
Nhà
phê bình chỉ có thể chiến thắng ở ván bài tương lai khi biết nhìn xuyên qua
những tác phẩm cụ thể để khám phá ra hệ mỹ học làm nền tảng cho công việc sáng
tác của nhà văn hay nhà thơ. Phê bình, do đó, tất yếu phải nghiêng về lý thuyết
hơn là thực hành. Công việc quan trọng nhất của phê bình không phải là đánh giá
từng tác phẩm cụ thể mà là xây dựng những tiền đề lý luận cho một hệ thẩm mỹ
mới đang hoặc sẽ ra đời căn cứ trên việc phân tích bản chất của ngôn ngữ và văn
học hay trên xu hướng phát triển chung của lịch sử cũng như của văn hoá. Với
những tiền đề lý luận ấy, người ta sẽ nhìn văn học một cách khác, từ đó, sẽ
sáng tác cũng như sẽ cảm thụ một cách khác.
Ngày
trước, các nhà phê bình lớn, từ Kim Thánh Thán ở Trung Hoa cho đến
Saint-Beuve ở Pháp, từ John Ruskin của Anh cho đến Vissarion
Belinsky của Nga, qua việc phê bình của họ, làm cho người ta cảm thấy yêu
hơn một số tác phẩm hay một số tác giả nào đó, từ đó, người ta cũng có thể thấy
thế giới văn học đẹp đẽ hơn và giàu có hơn. Có thể gọi đó là truyền thống phê
bình nhằm làm "sáng giá và sang giá" tên tuổi một số cây bút lớn, nói
theo chữ của Hoàng Ngọc Hiến.
Từ
đầu thế kỷ 20, với sự xuất hiện của hình thức luận, Phê Bình Mới, cấu trúc
luận và hậu cấu trúc luận, nữ quyền luận và hậu thực dân luận, vai
trò của nhà phê bình đổi khác: các nhà phê bình lớn, từ Viktor
Shklovsky cho đến Roman Jakobson, từ Roland Barthes cho đến Jacques
Derrida, từ Michel Foucault cho đến Edward Said, v.v... đã không tôn vinh
được một tác giả hay một tác phẩm nào, kể cả những tác giả hay tác phẩm mà họ
dành nguyên cả một cuốn sách dày để phân tích.
Lý
do là, với họ, tác phẩm chỉ còn là một cái cớ, một ví dụ được lựa chọn đôi khi
một cách khá tình cờ, để qua đó, họ khám phá ra những cái mã (code) ngôn ngữ
hay những cái mã văn hoá tiềm ẩn bên trong tác phẩm văn học. Những sự khám phá
ấy có thể không làm thay đổi giá trị tác phẩm được phân tích nhưng lại có tác
dụng làm thay đổi cách đọc cũng như cách chúng ta nhìn về văn học. Nhờ những sự
thay đổi ấy, những tác phẩm văn học trong quá khứ có thể xuất hiện dưới một
diện mạo khác. Sự thay đổi nhiều khi triệt để đến độ ở khắp nơi người ta tự
thấy có nhu cầu phải viết lại lịch sử văn học của đất nước mình. Và thú vị hơn
nữa là cả giới sáng tác cũng tự thấy không thể an tâm để sáng tác như
trước được nữa.
Có
thể nói mục tiêu lớn nhất của phê bình không phải là bảo vệ cái trật tự hiện
có. Cái trật tự ấy đã có, đã được nhìn nhận và đã được quần chúng bảo vệ. Nó
không cần đến nhà phê bình. Đứng về phía đó, nhà phê bình chỉ có thể đóng vai
những kẻ bảo quản, hoặc may lắm, trùng tu di tích lịch sử. Công việc đó tuy
đáng quý nhưng không phải không có phần nguy hiểm: nó dễ tạo nên ảo tưởng là
văn học là một cái gì tĩnh tại và bất động, người ta chỉ cần lặp lại chứ không
cần sáng tạo.
Một
điều mà nhà phê bình cần làm hơn chính là tranh đấu cho một trật tự mới, cái
trật tự vừa mới chớm, chưa được nhiều người thấy và chưa được ủng hộ. Làm công
việc đó, nhà phê bình có thể ít nhiều gây ra sự bất an. Nhưng đó không phải là
điều đáng lo lắng. Không có bất an thì sẽ không có sáng tạo. Trong sinh hoạt
văn học, trái với điều nhiều người có thể tưởng, chính cảm giác bất an mới là
dấu hiệu của sự lành mạnh và tích cực.
Ngược
lại, chỉ có nghĩa là chết.
Nguyễn
Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.