Đảng Cộng sản sẽ tiếp
tục hóa giải các phong trào 'ngoài luồng' như trong quá khứ?
Điểm tham chiếu cho
cuộc trao đổi qua email là một tiểu luận đăng trên Tạp chí Dân chủ (Journal of
Democracy) số tháng Tư 2012, của Tiến sĩ người Anh Martin Gainsborough.
Đây là một trong vài
nghiên cứu hiếm hoi gần đây của người nước ngoài tìm cách giải thích vì sao nền
chính trị “không ưa các giá trị tự do” tồn tại ở cả ba nước Lào, Campuchia và
Việt Nam.
Ba quốc gia này
dù khác nhau nhưng cũng lại có nhiều điểm chung, theo ông Gainsborough,
người từng có thời gian dài làm nghiên cứu thực địa tại Việt Nam.
Tác giả nhấn mạnh yếu
tố văn hóa chính trị - vị nể tầng lớp trên và quan hệ mang tính gia trưởng –
để giải thích trục liên hệ Nhà nước - Công dân ở ba nước. Nền văn hóa chính trị
mà giới cầm quyền ở cả ba nước chia sẻ khiến họ bác bỏ đa nguyên và nghi ngờ mọi
tổ chức độc lập và xã hội dân sự.
Dân chủ tự do phương
Tây cũng khó nảy mầm ở ba nước vì “sự trỗi dậy của ‘chính trị tiền bạc" và
"thương mại hóa nhà nước". Đây là hiện tượng có quyền là có tiền,
và Nhà nước cùng doanh nghiệp sống dựa vào nhau.
BBC đã mời bốn tiến
sĩ nghiên cứu Việt Nam bình luận về tiểu luận “Elites vs. Reform in Laos, Cambodia, and
Vietnam” và thử dự đoán diễn biến chính trị sắp tới.
Bấm Tiến sĩ Lê Sỹ
Long, Đại học Houston, Hoa Kỳ:
"Một khi công
chúng càng không xem Đảng Cộng sản là vĩ đại, thì càng có nhiều người kêu gọi một
hình thức chính trị đa nguyên nhất định"
Tiến sĩ Lê Sỹ Long
Theo tôi hiểu,
Martin biện luận rằng không thể xảy ra sụp đổ chính thể ở Việt Nam, và chính phủ
Việt Nam không gặp thách thức nghiêm trọng. Ông cũng đặt ra một số con đường mà
Việt Nam sẽ đi, nhưng nói “điều chắc chắn là sự thắng thế to lớn và đột ngột của
tư tưởng chính trị tự do là kết quả ít khả thi nhất”.
Nhìn chung, không hẳn
là tôi bất đồng với luận điểm chung của Martin. Điểm duy nhất tôi muốn nói là
dường như Martin đánh giá thấp những “sự đứt gãy cơ cấu” và “điểm bước ngoặt”
đang xuất hiện ở Việt Nam, mà sẽ quyết định con đường đi của chính phủ.
Những “đứt gãy cơ cấu”
bao gồm thất bại trong kiểm soát tham nhũng, yếu kém căn bản trong hệ thống
kinh tế và tài chính (liên tục lạm phát cao, bất ổn giá, bộ máy hành chính cồng
kềnh…), sự kém hiệu năng của chính phủ (phụ thuộc các doanh nghiệp nhà nước yếu
kém, các vụ thu hồi đất gây tranh cãi…). Tuy vậy, tôi phải thừa nhận rằng những
“đứt gãy cơ cấu” thường được dự báo ít khi nào xảy ra.
Chính quyền Việt
Nam vẫn có khả năng hóa giải các phong trào 'ngoài luồng'
Những “điểm bước ngoặt”
là hoạt động của các nhóm vì quyền lao động, đất đai, nhân quyền, dân chủ, tôn
giáo. Các hoạt động này trước đây tương đối tách biệt nhau, nhưng nay bắt đầu
tương tác bất chấp sự đàn áp của nhà nước. Theo một số tường thuật, sự kết nối
gia tăng giữa các nhóm xã hội dân sự này là do nhà nước một đảng không thể đáp ứng
đòi hỏi của dân chúng.
Như Carl Thayer từng
nhận xét, rủi ro bất ổn chính trị hay bất ổn xã hội xảy ra vì sự phê phán chính
sách ở một lĩnh vực này lại có thể lan qua các lĩnh vực khác. Tuy vậy, tôi cũng
thừa nhận những “điểm bước ngoặt” không thể xảy ra trừ phi có ủng hộ, ít nhất
ngấm ngầm, từ các nhóm khác hay một liên minh quan trọng bên trong Đảng.
Tuy vậy, tôi cho rằng
những “sự đứt gãy cơ cấu” và “điểm bước ngoặt” hiện đang khiến Đảng khó duy trì
hiện trạng như lâu nay. Các vụ như bauxite, Trường Sa và Hoàng Sa, và thu hồi đất
đã dẫn đến tranh luận về cải cách – làm thế nào xây dựng một chính phủ có trách
nhiệm và tuân thủ luật pháp.
Một khi công chúng
càng không xem Đảng Cộng sản là vĩ đại, thì càng có nhiều người kêu gọi một
hình thức chính trị đa nguyên nhất định.
Sụp đổ chính thể rất
khó xảy ra chủ yếu vì hệ thống Đảng ở Việt Nam rất giỏi thu nạp các vấn đề nóng
bỏng từ mọi phong trào “bước ngoặt”.
Về căn bản, cản trở
cho kêu gọi cải tổ hiện nay là thiếu đồng thuận và động lực. Hai điều này thường
xảy ra từ “sự đứt gãy cơ cấu” (như cải tổ kinh tế năm 1986) khi một liên minh
tìm được đồng thuận để thúc đẩy thay đổi lớn.
Cuối cùng, tôi đồng
ý với Martin rằng nếu những biến chuyển có xảy ra, thì tư tưởng chính trị tự
do cũng sẽ không thắng thế. Tuy vậy, những thay đổi chuyển hóa sẽ có thể đánh dấu
một cột mốc quan trọng để đem lại “diễn biến hòa bình” mà từ lâu thiếu vắng
trong lịch sử chính trị Việt Nam.
Bấm Tiến sĩ Andrew
Wells-Dang, nhà tư vấn về xã hội dân sự, Hội An, Việt Nam:
Martin Gainsborough
rõ ràng đúng khi nói có những khía cạnh phi dân chủ trong văn hóa chính trị của
Việt Nam (cũng như Lào và Campuchia) mà đã tồn tại từ những chính thể trước kéo
dài cho đến ban lãnh đạo hiện nay. Nhưng tôi không nghĩ điều này quyết định những
thay đổi tương lai. Nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á có những khía cạnh tương tự,
vậy mà một số (Indonesia, Nam Hàn, Đài Loan…) đã trở thành các nền dân chủ hoạt
động tương đối tốt, và cũng có những nước chưa thành công.
Một chi tiết rút ra
được từ phân tích của Tiến sĩ Gainsborough là dân chủ hóa phụ thuộc vào thay đổi
trong xã hội và văn hóa chính trị. Nó không chỉ là thay một nhóm cai trị này bằng
một nhóm khác. Một phần vì nhận thức này mà đa số các tác nhân của xã hội dân sự
hiện nay không xem đối lập chính trị là ưu tiên.
Các lãnh đạo Hàn
Quốc đã tạo ra cuộc biến đổi sang dân chủ
Bằng cách thực hiện
các dự án cộng đồng và làm gương trong hoạt động, xã hội dân sự có thể đóng vai
trò xây dựng để thúc đẩy một xã hội và nền văn hóa dân chủ hơn, ngay cả bên
trong hệ thống chính trị hiện hành. Người ta không thể dự đoán khi nào hoặc liệu
thay đổi chính trị có xảy ra hay không, nhưng sự tham gia về xã hội và văn hóa
có thể diễn ra bất kỳ lúc nào.
Trong bài, tác giả
cũng đặt câu hỏi làm thế nào ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ để tư lợi. Tôi muốn
chỉ ra rằng việc này không nhất thiết đồng nghĩa với dân chủ hóa. Một số nền
dân chủ như Ấn Độ, Philippines cũng gặp vấn đề tham nhũng và lạm dụng quyền lực,
trong khi một số nước phi dân chủ (Singapore, hay có lẽ Cuba) lại có tiến bộ giải
quyết những vấn đề này.
Mọi hệ thống đều phải
đi tìm giải đáp cho câu hỏi có thể làm gì khi các lãnh đạo vượt quá lằn ranh
cho phép: hoặc bỏ phiếu loại bỏ họ, hoặc lật đổ qua các phong trào dân chúng,
hoặc kỷ luật nội bộ. Hiện nay Việt Nam chỉ có cơ chế thứ ba, và cách này chỉ hiệu
quả nhất định trong một thời gian.
Bấm Tiến sĩ Dr.
Jörg Wischermann, Viện Nghiên cứu châu Á, Hamburg, Đức:
Martin Gainsborough
có cái nhìn đáng chú ý về ba chính thể độc đoán ở Đông Nam Á và phân tích tác
động của các lực lượng kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội giúp duy trì hiện trạng
cũng như những lực lượng có thể dẫn đến thay đổi (hạn chế) của ba chính thể.
Giả định đằng sau
phân tích của ông ấy là sự đối lập giữa văn hóa chính trị và quyền lợi của “giới
tinh hoa” và bên kia là cái ông gọi là sự tham gia xã hội dân sự của một bộ phận
giai cấp trung lưu. Sự đối lập này tạo thành trọng tâm cho khung lý thuyết mà
tác giả dùng để phân tích các góc cạnh của nguyên trạng và thay đổi ở ba nước.
Và ưu điểm cũng như
nhược điểm trong phân tích của tác giả cũng nằm ở đây. Về căn bản, ông xem văn
hóa là một hiện tượng xã hội cụ thể đại diện cho tính cách cốt lõi của một dân
tộc, và ông cố gắng gắn hành vi của con người vào những cấu trúc hạn chế, định
sẵn. Gainsborough cho rằng ở cả ba nước, văn hóa chính trị mang tính gia trưởng
và độc đoán, và hiện trạng chính trị, kinh tế được các lợi ích kinh tế giúp duy
trì. Trái ngược với nó, xã hội dân sự được mô tả như lực đẩy thay đổi từ từ.
Cách hiểu văn hóa
như thế có thể bị tranh cãi nhiều. Nó có vẻ tương tự cái nhìn về những nước Ả Rập
bị coi là thù nghịch với sự thay đổi – cho đến khi Mùa xuân Ả Rập hủy diệt những
gì còn sót lại từ giả định này. Điểm thứ hai, về vai trò của xã hội dân sự như
nguồn gốc của sự đổi thay từ từ, đáng tin hơn và có thể có nhiều bằng chứng thực
tiễn ít nhất trong trường hợp Việt Nam.
Ở phần cuối,
Gainsborough làm một điều khá hiếm là nhìn về tương lai của ba chính thể. Thật
không may, ông chỉ đưa ra các kịch bản theo những điểm tham chiếu quen thuộc
(dân chủ hóa ở Nam Hàn và Đài Loan; chia rẽ trong hàng ngũ của “giới tinh
hoa”….). Một lần nữa, ông cho rằng sức mạnh của một nền văn hóa chính trị độc
đoán sẽ hạn chế cố gắng thay đổi toàn diện chính thể (một kết luận mà theo tôi,
ông không chứng minh ít nhất về thực nghiệm).
Phần cuối bài và đề
cập liên tục của tác giả về sức mạnh khống chế của văn hóa chính trị khiến độc
giả ngạc nhiên. Làm sao Đông phương luận (Orientalism) có thể hồ hởi sống lại ở
Đông Nam Á, một năm sau khi Mùa xuân Ả Rập đã hủy diệt những gì còn lại của tư
duy ấy?
Vì sao Gainsborough
không giới hạn lập luận trong những gì có thể quan sát rõ ràng và đã được ông
phân tích kỹ ở những tác phẩm trước đó: sự đối lập quyền lợi giữa các tầng lớp
trong xã hội Việt Nam, và cố gắng của các giới nhằm khống chế nhà nước và chính
sách của nhà nước.
Nếu tác giả làm thế,
hẳn ông đã kết luận rằng hiện nay có một sự thống trị tạm thời và mong manh của
một lớp người có ảnh hưởng về kinh tế, chính trị, và nhà nước mà họ khống chế
có các chính sách nhằm xoa dịu giai cấp lao động và nông dân (hai cột trụ của
chế độ cộng sản) mà bỏ qua giai cấp trung lưu. Ví dụ là chính sách chống lạm
phát mà đã gây ra phá sản cho khoảng 100,000 đến 150,000 doanh nghiệp tư nhân vừa
và nhỏ.
Bấm Tiến sĩ Tường
Vũ, Phó Giáo sư Khoa Chính trị học, Đại học Oregon, Hoa Kỳ:
Martin Gainsborough
đúng khi cho rằng văn hóa chính trị của giới tinh hoa và một xã hội dân sự yếu ớt
tạo thành những thách thức to lớn cho dân chủ tự do (liberal democracy).
Cảnh sát Jakarta
và người biểu tình năm 1999: hiện chưa rõ Việt Nam theo mô hình Đài
Loan hay Indonesia
Nhưng dân chủ tự do
chỉ là một hình thức của dân chủ. Các nền dân chủ châu Á như Nhật Bản và Nam
Hàn, ở nhiều mặt, là phi tự do. Ví dụ, theo Luật An ninh Quốc gia từ năm 1948,
chính phủ Nam Hàn có thể truy tố và tống giam người dân chỉ vì họ ca ngợi Bắc
Hàn. Năm 2010, 151 người bị thẩm vấn vì nghi ngờ vi phạm Luật An ninh Quốc gia.
Số lượng người bị
truy tố vì có hoạt động 'thân Bắc Hàn' trên mạng là 82 người năm 2010.
Sang năm 2011, có
178 trang web nội địa bị đóng cửa vì bị cho là có nội dung 'ủng hộ Bắc Hàn'.
Để có dự đoán chính
xác hơn, có lẽ chúng ta cần giới hạn sự thảo luận về một hệ thống thực tiễn
hơn, ví dụ nền dân chủ có bầu cử đa đảng như Indonesia. Hệ thống này dĩ nhiên
không hoàn hảo, nhưng từ góc nhìn tự do, nó vẫn tốt hơn nhiều so với chế độ độc
tài toàn trị hiện nay ở Việt Nam.
Nếu ta nghĩ theo hướng
này, khả năng chuyển đổi cao hơn nhiều ngay cả khi không thể nói chính xác khi
nào nó xảy ra. Khó đoán là vì thông thường, chuyển đổi chỉ xảy ra khi nhiều sự
kiện cùng kết hợp.
Thử nghĩ về sự sụp đổ
của chính thể Suharto ở Indonesia năm 1998. Nó xảy ra vì khủng hoảng kinh tế và
chuyện kế vị. Trước đây khủng hoảng kinh tế đã từng có nhưng chỉ khi kết hợp vấn
đề kế vị, nó mới khiến chính thể Suharto sụp đổ. Năm 2011 ở Ai Cập, cũng là vấn
đề kế vị và sự xuất hiện đột ngột của một biểu tượng tử sĩ khiến sự phẫn nộ dồn
nén lâu nay bùng phát chống sự tàn bạo của cảnh sát.
Tôi thấy Indonesia
và Ai Cập là kịch bản khả dĩ hơn cho Việt Nam, chứ không phải Nam Hàn và Đài
Loan, do mâu thuẫn giữa các phe trong Đảng Cộng sản, quản lý kinh tế kém và sự
tụt giảm chất lượng cuộc sống mấy năm qua, cũng như sự gia tăng tham nhũng và bạo
lực của cảnh sát.
Dĩ nhiên, việc chuyển
giao quyền hành ở Việt Nam được thể chế hóa tốt hơn Indonesia và Ai Cập. Nhưng
kể từ 2006, ta chứng kiến việc tập trung quyền hành vào tay Thủ tướng và phe của
ông. Chưa rõ liệu phe này có khả năng thể chế hóa ưu thế của họ tại Đại hội Đảng
lần sau hay không.
Nói về nguồn gốc
thay đổi, những gì Đảng Nhân dân Hành động làm ở Singapore cũng không xảy ra được
ở Việt Nam, vì đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam thậm chí chưa bao giờ chấp nhận
khái niệm đối lập. Đi từ “dân chủ tập trung” đến “đối lập trung thành” là con
đường quá xa cho họ. Ngược lại, các đảng đối lập ở Singapore, dù yếu, vẫn luôn
tồn tại. Do thiếu sự đối lập có tổ chức ở Việt Nam, một kịch bản như ở Liên Xô
(một phe hay cá nhân trong Đảng, Boris Yeltsin, dẫn dắt thay đổi đột ngột) là
khả dĩ hơn.
Liệu sẽ có Yeltsin ở
Việt Nam hay không, và người đó như thế nào, sẽ phụ thuộc sự kết hợp các yếu tố
kể trên. Nhưng ngày hôm nay, sự kết hợp đó có vẻ khả thi hơn so với 5 năm trước.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.