Có lẽ lần gặp Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt là lần thứ hai trong đời tôi bị xúc động mạnh trong tâm trạng buồn vui lẫn lộn.
Lần đầu là lúc bước
lên máy bay rời Việt Nam theo diện bảo lãnh trên 25 năm trước. Khi đó, tôi rất
vui vì viễn tưởng một tương lai tươi sáng trong thế giới tự do như Canada. Tôi
vui vì sẽ không thấy cảnh mẹ tôi đi buôn trên những chiếc xe hơi nước đốt nóng
bằng một bình than to tướng ở sau xe. Thỉnh thoảng, vài cục than rực lửa rớt
trên nền tráng nhựa của đường phố Sài Gòn. Nhiều lúc, chúng tôi phụ mẹ gom đậu,
gom gạo rớt vương vãi trên xe sau mỗi cuộc hành trình. Trước đó, mẹ đã bán từng
món đồ còn lại trong gia đình. Tất cả, mẹ dồn vào mấy kỳ đi thăm nuôi cha tôi
trong tù cải tạo, trong khi vẫn phải lo bữa khoai độn, bữa bo bo cho đàn con dại
ở nhà. Và hơn hết, tôi vui vì sắp thoát khỏi nguy cơ bị “nhà nước” bắt làm
“nghĩa vụ lao động” nơi rừng thiêng nước độc.
Nhưng những niềm vui
riêng lẻ đó lại bị cấu xé, dằn vặt bởi nỗi buồn da diết, xót xa vì không biết
bao giờ tôi mới có thể bình yên trở về thăm Sài Gòn với những con đường thân
thương, ngôi trường Gia Long cổ kính (*), thầy cô và bạn bè cũ. Thời đó chưa có
internet, thư từ cũng chậm chạp. Sự bế quan tỏa cảng của “nhà nước” càng làm
cho sự trở về thăm cố hương trở nên vô vọng.
Ngồi trên máy bay,
là con trai 19 tuổi đầu nhưng tôi vẫn cho phép mình khóc nức nở.
* * *
Cơ hội làm MC điều khiển chương trình cho Đêm
nhạc thính phòng khiến tôi phải đọc thật nhiều về Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt. Tạp
chí Readers’ Digest – số tháng Ba, 1997, tác giả Anita Bartholomew có đoạn viết
(**):
“Ai mua đậu phộng luộc
hông!” người đàn bà bán hàng ở chợ Sài Gòn cất tiếng rao, “Đậu phộng tươi đây!”
Khi một thằng bé khiếm thị đang lần mò bước về
hướng tiếng rao hàng của người đàn bà, bà ta nhổ toẹt một bãi nước miếng và mắng,
“Đi chỗ khác chơi mày ơi. Không có gì cho mày đâu.”
Cậu bé vỗ nhẹ vào tay đứa em gái và an ủi:
“Không sao đâu. Thế nào cũng có người tốt giúp mình hôm nay mà.” Năm nay 11 tuổi,
cậu bé vẫn thường an ủi đứa em gái cùng mẹ khác cha mỗi khi bị người đời hắt hủi.
Nhưng, hôm nay cậu không tìm được sự an ủi nào. Một kẻ bị thất thế tới ba lần:
khiếm thị, con lai Mỹ, và phải đi ăn xin.
Tôi đã đọc đoạn này nhiều lần, nhưng mỗi lần đọc,
tôi lại nghẹn ngào. Chính tôi và chị tôi – khi đó 9 và 11 tuổi, đã từng bưng
khay ra ngã Bảy Sài Gòn bán từng chiếc bánh phục linh. Chúng tôi chỉ bán được gần
một tuần và đã cảm thấy cái cảnh hai chị em lang thang ngoài đường bán dạo, sao
nó ê chề làm sao. Giờ đây, liên tưởng đến thằng anh mù lòa, dẫn con em đi xin
ăn bị người đời phỉ báng, cuộc đời của họ thật xót xa!
“Sinh năm 1971 mang
hai dòng máu Việt-Mỹ, đến đầu năm 75 mẹ cậu qua đời. Hai anh em, đứa gần 5 tuổi,
đứa 3 tuổi được đưa vào cô nhi viện…”
Cũng năm 1975, khi
Việt Nam được gọi là thống nhất trong độc lập, tự do, hạnh phúc, thì cũng chính
là lúc hai anh em mồ côi bị đuổi ra khỏi cô nhi viện (***).
Được biết, sau tháng
Tư năm 1975, các thương bệnh binh Việt Nam Cộng Hòa đã bị đuổi ra khỏi bệnh viện
mặc cho bệnh tình của họ nặng hay nhẹ. Một hành động vô nhân đạo đã từng bị lên
án. Nhưng tôi không thể tưởng tượng nổi hai đứa trẻ mồ côi lại bị đuổi ra khỏi
cô nhi viện. Tại sao con người lại có thể nhẫn tâm đến thế!
Giờ đây, mỗi buổi
sáng, đưa con đi nhà trẻ, nhìn lũ trẻ vui đùa trong sự dìu dắt, chăm sóc trong
dạy dỗ của các cô giáo, tôi càng thương xót cho hai đứa bé mồ côi này.
“Rồi hai đứa trẻ được
một người đàn bà hà khắc đem về nuôi, bắt làm việc nhà như tôi mọi. Hai đứa bỏ
trốn vào năm 1977 và lang thang hết hai năm từ quê mới ra tới Sài Gòn. Bằng số
tiền huê hồng từ những tờ vé số bán được, hai anh em sống lây lất trên các bãi
cỏ công viên, hay trong những con hẻm.”
Buồn quá! Câu chuyện hai anh em mồ côi này phải
được Màn bạc Hollywood làm phim và trao giải “Phim Buồn Nhất Thế Kỷ” mới xứng
đáng.
* * *
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt
được MC Bạch Tuyết, người đồng điều khiển chương trình dẫn ra sân khấu. Trong
cái trực giác của người khiếm thị, có sự vui nhộn hòa lẫn sự tinh tế. Chàng đã
cám ơn nàng da trắng ngần như tuyết dẫn mình vào show. Chẳng cần nhìn. Nhưng,
thi vị như Nguyên Sa đã thố lộ trong bài thơ Tháng Sáu Trời Mưa, “da em trắng,
anh chẳng cần ánh sáng”.
Thật ra, gia đình Nhạc
sĩ Nguyễn Đức Đạt có một bé gái tên là Elaine, nghĩa là ánh sáng. Elaine mới 4
tuổi nhưng đã hát rất vững và theo cha biểu diễn nhiều nơi. Cháu rất tự hào là
đôi mắt của cha và là đôi chân của mẹ.
Sang Mỹ năm 1991 và
thi đậu vào California State University tại Fullerton vào năm 1993, chàng sinh
viên Nguyễn Đức Đạt đã từng làm giáo sư David Grimes – Trưởng Phân khoa Âm nhạc
– ngạc nhiên về cách biểu diễn cũng như sự truyền cảm của bài dự thi tuyển sinh
Ngẫu khúc Ả rập (Capriccio Arab) của Franciso Tárrega qua thời ấu thơ khổ ải của
chính mình. Thời gian qua mau, anh đã tốt nghiệp cử nhân. Tuy nhiên, một điều
mà anh hơn hẳn những sinh viên khác là trực giác sắc bén của người khiếm thị,
và hai bàn tay điêu luyện của sự quyết tâm bền bỉ.
Phần biểu diễn trường
ca Hòn Vọng Phu quả thật có một không hai. Tay phải anh gẩy đàn lúc chậm rãi kiểu
guitar classic, lúc liến thoắng và rung theo kiểu flamenco, lúc nhịp mạnh vào
thùng đàn. Tay trái bấm gam, đôi lúc gẩy thêm vài nốt. Dây đàn lúc thẳng, lúc
quấn vào nhau để tạo nên tiếng trống, tiếng vó ngựa. Khán giả càng ngạc nhiên
hơn khi nghe Quốc Ca Việt Nam lồng trong Hòn Vọng Phu, “Này công dân ơi! Quốc
gia đến ngày giải phóng…”. Quả là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam được đề cao
như tấm lòng ái quốc thiêng liêng hòa lẫn vào tình cảm gia đình, ôm con chờ chồng
mà hóa đá…
Đối với tôi, và có lẽ
với nhiều khán giả, nhạc phẩm Dấu Tình Sầu được Nguyễn Đức Đạt song ca với MC Bạch
Tuyết là một trong những dấu ấn “đạt” nhất trong đêm nhạc thính phòng. Một giọng
nam hùng mạnh với mười ngón tay uyển chuyển rung lên những nốt nhạc du dương, một
giọng nữ duyên dáng trong tuổi giáng ngọc quyện với nhau lưu luyến, xao xuyến
hơn cả sự điêu luyện của Bằng Kiều và Khánh Ly.
Ngày Kính Mẹ cũng gần
kề, Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt đề nghị thêm vào chương trình nhạc phẩm Vòng Tay
Thiêng Liêng do chính anh sáng tác. Mồ côi mẹ lúc mới lên 5 tuổi nên những lời
ca, những tiếng ru trở nên sâu đậm hơn, da diết hơn. Anh cũng cùng với khán giả
“Ơi à …, à ơi …” để cùng nhớ Mẹ, và khơi dậy nghị lực sống mạnh mẽ trong anh
cũng như mọi người.
Một trong những kỷ
niệm sâu đậm nhất trong đời Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt là được trình diễn chung với
Stevie Wonder, người mà anh từng ngưỡng mộ từ khi anh mới chập chững bước vào
âm nhạc. Lần đó, là một người hâm mộ, cũng là một nhạc sĩ, cũng khiếm thị như
Stevie Wonder và đặc biệt là biết cách hòa tiếng guitar theo “tới bến”, anh đã
làm cho Stevie Wonder sảng khoái, cao hứng biểu diễn nhiều tiết tấu khác.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt
sáng tác và biểu diễn tây ban cầm rất đa dạng, từ cổ điển đến flamenco, từ nhạc
êm dịu đến hùng ca Việt Nam, từ easy listening tới hip hop. Anh tâm sự rằng anh
cũng tự soạn hợp âm và phối khí cho chính mình. Dùng keyboard, anh tạo ra nhịp
trống và các khí cụ khác, tự thổi sáo. Mỗi khí cụ được ghi âm vào một track
riêng. Sau đó, nhờ người kỹ sư âm thanh hòa nhập vào một bản MP3. Cho nên, khi
biểu diễn, anh bật máy MP3 rồi chơi guitar theo. Phần biểu diễn các nhạc phẩm
Fiesta, Lullaby of Spring, Recuerdos de la Alhambra, Club I, và Mala Guena cho
thấy sự đa dạng đó.
Tôi viết tới đây, chắc
hẳn bạn bè sẽ trêu chọc “thấy sang mắc quàng làm họ”. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt
sang thiệt. Một phần do tài năng guitar xuất chúng thuộc hạng cao thủ của anh,
chỉ nghe qua một bản nhạc là anh có thể dàn dựng lại theo một phong thái riêng
biệt. Một phần cũng do cá tính luôn lạc quan, yêu đời cùng sức phấn đấu mãnh liệt.
Chữ sang ở đây không tạo ra bởi bằng cấp, học vị, hay của cải tiền tài. Chữ
sang được gắn liền với văn hóa và trí tuệ vốn liếng của một con người. Quả đúng
như thông điệp anh muốn nhắn nhủ qua nhạc phẩm Gã Điên Trên Đồi Hoang. Người đời
thường đánh giá kẻ khác qua diện mạo bên ngoài mà ít thấy được cái giá trị bên
trong.
* * *
Khi mới gặp Nhạc sĩ Nguyễn Đức Đạt lần đầu, tôi rất dè dặt trong cử chỉ và lời nói giữa người nhìn và người không nhìn. Khi chia tay, chúng tôi vui đùa hồn nhiên. Cái khoảng trống vô hình, sự thương cảm, sự dè dặt không còn nữa. Bởi vì, người nhìn chưa chắc đã thấy, và người không nhìn nhưng lại thấy nhiều điều không phải hiển nhiên.
Lê Minh Thịnh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.