Lý do lập gia phả
Lời mở: Đây là
loạt bài về gia phả: (1) Lí do lập gia phả. (2) Một cách làm gia phả. (3) Gia
phả mẫu A tóm gọn của một dòng họ: họ nội người này hoặc họ ngoại người kia.
((4) Gia phả mẫu B tóm gọn của một dòng họ: ho ngoại người này hoặc họ nội
người kia.
Trong miền Cận
Đông thời cổ xưa, gia phả là cách ghi chép dòng tộc của mỗi người, gia đình, bộ
lạc, hoặc quốc gia. Bộ sách Cựu Ước chứa đựng chừng hai tá danh sách khác nhau
theo giá trị lịch sử. Những gia phả bảo đảm quyền lợi và đặc ân cá nhân trong
bộ tộc hoặc bộ lạc và tượng trưng cho sổ ghi chép của thành viên. Những gia phả
là nguồn tin tức quan trọng vì có chứa đựng những dữ kiện lịch sử, không được
tìm thấy trong những nguồn tài liệu khác. Xét theo những yếu tố trên, thì những
gia phả có tính cách quan trọng hơn là chỉ ghi chép dòng dõi tổ tiên về di
truyền, xã hội hoặc kinh tế - gia phả còn chứa đựng những chuyện về gia đình,
bộ lạc, bộ tộc hoặc quốc gia với những phỏng đoán, những niềm tin căn bản và
những giá trị và bối cảnh xã hội của người ghi chép mà có thể được khám phá ra
bằng cách để ý xem người ghi chép lưu ý đến những tài liệu nào đã được dùng để
ghi lại chuyện hoặc nối kết các thế hệ (1) . Theo bản thể loài người
thì Chúa Giêsu cũng có gia phả: một gia phả theo thánh Mát-thêu (Mt 1: 1-170 và
một theo thánh Lu-ca (Lc 3:23-38).
Sau đây là
đoạn trích mục ‘Vào đề’ trong gia phả họ ngoại của tác giả và của một số
người và cũng là gia phả họ nội của số người khác:
‘Nghe nói mình
có họ với ông nọ bà kia; hay ông này bà nọ nói họ là bà con với mình, mà
không biết họ hàng ra sao, gần hay xa và xưng hô với nhau thế nào. Lý do cũng
dễ hiểu vì ở quê nhà trước năm 1954 phương tiện truyền thông và đi lại còn đơn
giản. Sau năm 1954 do hoàn cảnh đất nước chia đôi, lại thêm chiến tranh
Nam Bắc, phương tiện đi lại cũng như truyền thông có tính cách hạn chế trắc trở
ở mỗi Miền và bị gián đoạn giữa hai Miền. Nhiều người mỗi năm chỉ gặp nhau một
lần vào dịp Tết. Vì thế họ hàng, bà con không biết hay không nhớ tên, tuổi cũng
như liên hệ với nhau như thế nào...
Suy đi nghĩ
lại lúc đi vào tuổi đời, người ta mới cảm nghiệm được những câu châm ngôn
như 'uống nước nhớ nguồn', 'một giọt máu đào hơn ao nước lã' là đậm tình chí lý
vậy. Rồi đêm nằm nghe tiếng lòng thôi thúc đi tìm căn nguyên, cội rễ và cành
nhánh thân mình. Do đó ý tưởng lập gia phả được manh nha để con cháu noi gương
nhân đức và việc làm đạo hạnh của tiên tổ và cầu nguyện cho người họ hàng quá
cố nhất là vào dịp Tết và ngày giỗ, và cũng để thân nhân còn sống cảm thấy được
gần gũi với nhau.
Tuy nhiên cái khó
cho tác giả là đã xa gia đình sớm và thời gian xa cách lại kéo dài lâu năm nên
không nghe biết nhiều về họ hàng. Dẫu thế việc gì đã được ấp ủ trong tâm khảm
thì cứ phải được tiến hành. Tháng 10 năm 2001, tác giả về thăm Quê Hương, đi từ
Bắc, qua Trung, vào Nam
gặp gỡ họ hàng và cổ võ việc thực hiện gia phả. Từ đó thư từ bay liên tục từ Mỹ
về Việt Nam
và hải ngoại, yêu cầu khai sổ gia đình theo mẫu sổ khai gia đình mà tác giả
soạn. Lúc đầu có những người hờ hững vì phải mất thời giờ lục sổ tìm kiếm. Khi được
biết những lý do, mục đích và lợi ích của gia phả, thì họ lại trở nên hào hứng.
Rồi thư ghi sổ gia đình được gửi tới tấp qua Mỹ . Trong số những người cộng tác
đã dành nhiều thời giờ liên lạc và ghi chép phải kể đến người cháu của tác giả
trong Nam
và người anh bà con với tác giả ngoài Bắc... Có những trẻ em mồ côi cha mẹ, hay
trẻ em có cha mẹ nuôi từ nhỏ, khi lớn lên cũng đã dành nhiều thời giờ, công sức
đi tìm cha mẹ đẻ .
(Những dòng
chữ trong ngoặc và chú thích 2 được thêm vào sau khi bài này được phóng lên
mạng: Có người Việt Nam kia lúc vào khoảng 15 tuổi được cha mẹ nuôi cho
biết đã 'nhặt được' anh lúc anh chừng 2 hay 3 tuổi tại sân bay Đà Nẵng. 'Buồn
và tủi thân' là tâm trạng của anh khi nghe tin này. Lớn lên anh đã cố đi tìm
ông bà thân sinh và người thân nhân. Lúc gần bốn mươi tuổi, anh còn viết thư
cho Báo Ngươi Việt nhờ tìm kiếm cha mẹ. Muốn biết thêm chi tiết về câu
chuyện, xin coi phần chú thích [2] ).
Nhận thức được
tầm quan trọng của cha mẹ sinh thành, ngày nay có những tổ chức tìm kiếm cha mẹ
nuôi, giàn xếp cho người con nuôi, khi lớn lên, tiếp xúc và gặp gỡ cha mẹ đẻ
của họ. Có những trường hợp hai người khác phái gặp nhau, làm quen biết, dự
tính chuyện hôn nhân, mà không biết là hai người còn có liên hệ bà con gần gũi
với nhau.
Làm gia phả để
giúp con cái, cháu chắt... những thế hệ sau này biết về nguồn gốc tổ tiên, biết
họ là ai, từ đâu đến, làm nghề nghiệp gì, cũng như những sự nghiệp, thành tích
và ngay cả những giới hạn của tổ tiên. Làm gia phả để miêu duệ noi gương đạo
đức và phát huy những truyền thống đạo hạnh của tổ tiên. Có gia phả sẽ giúp cho
người họ hàng trong dòng tộc trở nên gần gũi với nhau và giúp cho dòng họ
vươn lên ít là về đời sống tinh thần.
Một cách làm gia phả họ Nội hoặc họ
Ngoại
Đây là một
cách làm gia phả, áp dụng cho bất cứ dòng tộc, dòng họ nào của người Việt Nam , không
phân biệt tôn giáo. Trong cách làm gia phả này, hoặc gia phả mẫu của hai bài kế
tiếp, những gì áp dụng cho người Công giáo, thì người khác tôn giáo có thể bỏ
đi, hoặc đem những nét tôn giáo của mình vào. Ví dụ đối với người Công giáo, có
thêm thánh danh ghi sau tên họ, đệm, gọi, thì người Phật giáo có thể thêm pháp
danh vào. Vì thánh danh không có trong sổ khai sinh, nên được viết sau và
viết nghiêng như để bổ túc vào. Khi làm gia phả, nên tách họ nội ra khỏi họ
ngoại, để tất cả những người trong gia phả họ nội đều là bà con với nhau và
những người trong gia phả họ ngoại đều là bà con với nhau. Họ nội là họ của bố
sinh ra mình. Họ ngoại là họ mẹ đẻ ra mình. Nếu làm gia phả họ nội chung với họ
ngoại của một người thì có những người trong gia phả là bà con với người này mà
không phải là bà con với người kia trong cuốn gia phả.
A. Làm Gia phả họ nội:
Khi lập gia
phả họ nội, cần bắt đầu từ những người họ hàng gần nhất, nghĩa là liệt kê tên
bố (tên họ, đệm, gọi, tên thánh); bố lập gia đình với mẹ ngày tháng năm nào
(tên họ, đệm, và tên gọi của mẹ và cả tên thánh, và quê của mẹ). Ghi tên thánh
để khi một người trong dòng họ qua đời mà cầu nguyện cho họ. Ghi ngày sinh hay
kỉ niệm để khi có dịp mà chúc mừng nhau. Nếu người Phật giáo thì ghi pháp danh
của họ. Cũng có thể ghi bí danh, tục danh, tên hiệu, hay bút hiệu .. của người
nọ người kia trong dòng tộc.
Rồi kê khai
các con cái của bố mẹ với đầy đủ tên. Nếu con đã lập gia đình, thì kê khai đầy
đủ tên của người phối ngẫu như có thể. Sau đó kê khai đầy đủ tên của các cháu.
Nếu cháu đã lập gia đình thì kê khai đầy đủ tên của người phối ngẫu và cứ thế
đi xuống mà làm.
Kế tiếp
là kê khai tên người cha của bố tức là ông nội mình. Rồi kê khai tên của
các con ông nội mình nghĩa là tên của các anh chị em ruột của bố, tức là bác,
chú, cô của mình. Kế tiếp khai anh hay chị em ruột của bố đã lập gia đình với
ai với đầy đủ tên của người phối ngẫu. Rồi kê khai con cái của các anh chị của
bố với đầy đủ tên như có thể. Sau đó kê khai con cái của các anh chị em ruột
của bố đã lập gia đình với ai với đầy đủ tên như có thể.
Rồi đi hỏi han
để khai tên của các anh chị em ruột của ông nội mình. Khai anh chị em ruột của ông
nội mình đã lập gia đình với ai, sinh ra các con nào, đã lập gia đình với ai.
Cứ thế đi xuống mà khai.
Sau đó
tìm kiếm xem ông thân sinh ra ông nội của mình tên gì, tức là ông cố nội.
Tiếp theo cứ vậy mà khai đi xuống. Sau đó đi tìm khai tên ông thượng tổ. Có thể
viết thư nhờ người trong dòng họ khai sổ gia đình theo mẫu khai sổ gia đình
mình muốn họ khai đính kèm trong thư hay nhờ người nào quen viết lách đi từng
gia đình trong dòng họ để khai.
Khi tìm được
ông cố tổ cao nhất thì gọi là đại (đại, đại) dòng tộc họ ông nọ, ông kia (viết
tên ông ấy ra và tính là (đời 1), rồi xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới, nghĩa
là từ đời cao nhất đến đời thấp nhất. Các con Ông gọi là đại (đại) Dòng tộc ông
nọ kia (đời 2). Các con ông đời 2 có thể gọi là Đại Dòng tộc ông (viết tên ra,
rồi gọi đời 3). Các con ông đời 3 gọi là Dòng tộc ông nọ ông kia (viết
tên ra và gọi là đời 4). Các con ông đời 4 gọi là Dại chi tộc ông nọ ông kia
(viết tên ra và gọi là đời 5). Rồi cứ thế mà tính xuống. Người trẻ nhất trong
dòng họ là đời mấy thì biết là gia phả dòng tộc của mình tính về quá khứ được
mấy đời.
Nên viết mấy
lời nói đầu hay vào đề, nêu lí do tại sao làm gia phả. Cũng nên làm trang nội
dung hay mục lục ở đầu tập gia phả và ghi số trang cho dễ tìm (Coi ví dụ nội
dung trang 1 trong gia phả mẫu A tóm gọn, hoặc gia phả mẫu B tóm gọn). Trong
phần ghi chú về cá nhân của người trong dòng họ, có thể ghi lại những sự
nghiệp, những gương đạo hạnh, những câu nói để đời, hay những câu nói tếu của
thành viên trong dòng họ. Những tên họ, tên đệm, tên gọi... trong bài này đều
là phịa ra để làm ví dụ.
Các con ÔB
Vàng = cháu ÔB ? = chắt ÔB ? = chút ÔB ? = chít ÔB?
Nguyễn Văn
Vàng, Phanxicô 01/01/1930 kết hôn Phạm Thị Bưởi, Maria 02/02/1931,
tại.., sinh:
-
Nguyễn Văn Bạc, Giuse 02/02/1950 - (ghi ngày tháng năm
qua đời vào sau gạch ) Đà Lạt, Lâm Đồng
-
Nguyễn Thị Cam, Terêsa 03/03/1953
-
(.......................................................gạch) Lạt, Lâm Đồng
-
Nguyễn Văn Đồng, Philipphê 04/04/1957 -
(.................................................... gạch) Đà Lạt,
Lâm Đồng
- ....
Các con ÔB
Bạc = cháu ÔB Vàng = chắt ÔB ? = chút ÔB ?
Nguyễn Văn
Bạc, Gioan kết hôn Trần Thị Chanh, Anna ngày tháng năm nếu
có, tại .., sinh:
-
Nguyễn Thị Mận, Catarina ...... 1975 - .....
Bảo Lộc, Lâm Đồng
-
Nguyễn Văn Chì, Bênêdictô ..... 1978
- .... Bảo Lộc, Lâm Đồng
-
Nguyễn Văn Thiếc, Phaolô ..... 1981-
.... Bảo Lộc, Lâm Đồng
- ...
Các con ÔB
Kền = cháu ÔB Chì = chắt ÔB ? = Chút ÔB?
Nguyễn Thị Cam
kết hôn Phạm Văn Kền, Phêrô, ngày, tháng, năm nếu có, sinh:
-
Phạm Văn Sắt, Gioan ........ 1979
- ....... Gia Kiệm, Đồng Nai
-
Phạm Văn Nhôm, Simon ........ 1981
- ...... Gia Kiệm, Đồng Nai
-
Phạm Thị Mít, Têrêsa
........ 1984 - ...... Gia Kiệm, Đồng Nai
- ...
Lưu ý:
Có những cha
mẹ sinh con ở ngoại quốc đặt tên gọi ngoại quốc cho con, còn tên đệm vẫn giữ
tên Việt Nam như Phạm Minh Kevin, hoặc ngược lại đặt tên đệm cho con là
ngoại quốc, còn tên gọi là Việt Nam. Ví dụ như: Phạm Henry Mẫn.
Trước đây Việt
Nam
là xứ truyền giáo nên khi xin cho con rửa tội, cha mẹ được hướng dẫn đặt cho
con một tên thánh để xin ông thánh nọ hay bà thánh kia phù hộ. Ở ngoại quốc khi
xin rửa tội cho con, linh mục ngoại quốc không đòi hỏi tên thánh cho em bé. Tuy
nhiên ở những xứ đạo Việt Nam
tại hải ngoại, linh mục Việt Nam
vẫn giữ thói quen đề nghị đặt tên rửa tội cho em bé. Khi chịu phép Thêm sức,
con em có thể dùng tên rửa tội làm tên thêm sức, hoặc chọn tên thánh khác làm
tên thêm sức. Trường hợp con cái có cả tên rửa tội và tên thêm sức, thì nên ghi
cả hai thánh danh vào gia phả, như: Phạm Quang Trung, John-Paulchẳng
hạn.
B. Làm Gia phả họ ngoại:
Khi làm gia
phả họ ngoại, kê khai đầy đủ tên của mẹ (tên họ, gọi, đệm, và cả tên thánh);
rồi khai mẹ lập gia đình với bố với đầy đủ tên của bố. Kế tiếp kê khai đầy đủ
tên của các con của mẹ cũng là các con của bố. Nếu các con đã lập gia đình, thì
kê khai đầy đủ tên của người phối ngẫu. Rồi kê khai đầy đủ tên của các cháu bố
mẹ. Và cứ thế đi xuống mà khai.
Tiếp theo khai
đầy đủ tên của các anh chị em của mẹ, chứ không phải anh chị em ruột của bố.
Sau đó tiếp tục gia phả họ ngoại theo những bước tương tự như khi làm gia phả
họ nội trên đây.
Còn
tiếp 2 bài nữa cùng loại:
- Gia phả tóm
gọn của một dòng họ: họ ngoại người này hoặc họ nội người ngoại.
- Gia phả tóm
gọn của một dòng họ: họ nội người này hoặc họ ngoại người kia
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.