Tuyên bố
14/9/1958 của ông Phạm Văn Đồng tiếp tục gây các bàn cãi sau 54 năm
Hai bên
Việt-Trung đã bắt đầu lên tiếng tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ năm 1909. Thế chiến thứ Hai làm tăng vai trò chiến lược của các đảo, vì nước
nào chiếm giữ các đảo ở đây không chỉ có thể kiểm soát các hải đạo ở biển Đông
mà còn có thể đặt các căn cứ quân sự khống chế các nước chung quanh.
Các thập niên
sau sự tiến bộ về luật Biển đã khiến các đảo khu vực này mang thêm tầm quan
trọng mới: các đảo có thể làm nền tảng để quốc gia đòi hỏi vùng biển chung
quanh (có thể rộng đến 200 hải lý) cùng quyền sở hữu các tài nguyên trong cột
nước, trên mặt và dưới thềm lục địa. Sau này, các túi dầu khí dưới thềm lục địa
các đảo được khám phá, việc này làm cho Hoàng Sa và Hoàng Sa tăng thêm quan
trọng về kinh tế chiến lược. Ngoài hai phía tranh chấp chính là Việt Nam - Trung
Quốc (và Đài Loan), bắt đầu từ năm 1909, các nước chung quanh, thập niên 50 và
70, (Phi, Mã Lai...) cũng lần lượt lên tiếng đòi chủ quyền các đảo. Tranh chấp
vì vậy mang tính địa chiến lược, do đó dẽ dàng lôi kéo các cường quốc ngoài khu
vực tham dự.
Về bối cảnh ra
đời, GS Joële Nguyễn cho rằng công hàm 1958 cần phải được xét trong bối
cảnh “Trung Quốc có xung đột cao với Hoa Kỳ. Lại có cuộc chiến Triều Tiên năm
1950. Các cuộc tấn công các đảo Quemoy và MaTrường Sau năm 1954-1955 và năm
1958 để giải phóng Đài Loan, đã dẫn đến phản ứng của Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan.”
Thực ra Hoa Kỳ
và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đã ký hiệp ước an ninh hỗ tương từ ngày 2
tháng 12 năm 1954. Điều 5 xác định nghĩa vụ hai bên khi có các cuộc tấn công
của nước thứ ba và phương cách đối phó tùy theo hiến pháp của hai nước. Điều 7
cho phép Hoa Kỳ được đặt các căn cứ bộ binh, không quân và hải quân trên đảo
Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và vùng chung quanh.
Tức là Hoa Kỳ
đã “bảo vệ” Đài Loan từ năm 1954. Các căn cứ được đặt tại Đài Loan và Bành Hồ
(cùng các nơi khác), đứng trên quan điểm Hoa Kỳ, là nhắm vào mục đích bao vây
Trung Quốc (containment). Trong khi quan điểm của Trung Quốc, hành động trên là
“đe dọa an ninh” nước này. Nói rằng việc “Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan” đến từ các
cuộc khủng hoảng Kim Môn và Mã Tổ 1954-1955 và 1958 là thiếu chính xác. Vì thế
khi nói công hàm 1958 có liên quan đến việc “Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan năm 1958”
là hoàn toàn không thuyết phục.
Hoàn cảnh ra
đời thực sự của công hàm 1958 là do Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958.
Công ước về thềm lục địa cũng được khai sinh nhân dịp này. Các quốc gia thuộc
LHQ có thể ký nhận công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì không
phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của Trung Quốc là cần thiết để khẳng
định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Công hàm 1958
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nhằm ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc về chủ
quyền lãnh thổ và hải phận của nước này.
Vấn đề là, nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể không biết về lịch sử chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa cũng như tầm quan trọng chiến lược của Hoàng
Sa và Trường Sa. Thay vì phải lên tiếng bảo lưu chủ quyền của Việt Nam
tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước này lại lên tiếng ủng hộ đòi hỏi của Trung
Quốc.
Hội nghị Francisco 1951 và Hòa ước
Nhật-Trung
GS Joele
Nguyễn viết: “Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, trong Hiệp ước Hòa bình với
Nhật Bản, 46 tiểu bang đã từ chối công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với
các hòn đảo, bất chấp các phản đối của Trung Quốc. Đây là chủ quyền mà Trung
Quốc không tuyên bố khi ký kết hiệp ước hòa bình song phương với Nhật Bản.”
Một số điều
cần nói lại cho rõ. Vào thời điểm Hội nghị San Francisco 1951 có đến hai nhà nước Trung
Quốc: 1/ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Nhà nước
này được LHQ nhìn nhận là đại diện duy nhứt của nước Trung Quốc. 2/ Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa (lục địa) do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Nhà nước này không
được sự nhìn nhận của LHQ. Hội nghị San
Francisco không có bên nào được tham dự. Dầu vậy Chu
Ân Lai có tuyên bố bên lề Hội nghị, đại khái không chấp nhận giá trị của Hội
nghị này.
Một vấn đề
pháp lý khác đặt ra từ Hiệp ước hòa bình San
Francisco . Theo điều 2, nước Nhật cam kết từ bỏ các
lãnh thổ đã chiếm trước đó (Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa và Trường Sa...) mà
không xác định rõ là giao cho nước nào. Trong khi đó điều 25, thì không giao
cho các nước (chủ quyền các vùng lãnh thổ mà Nhật từ bỏ) nếu các nước này không
ký kết và thông qua Hòa ước. Cả hai phía Trung Quốc đều không tham gia ký kết
Hòa ước.
Về “hiệp ước
hòa bình song phương với Nhật” (mà GS Joele Nguyễn đã nói) là hiệp ước nào?
Nếu với lục địa
thì nhà nước này thành lập năm 1949, bốn năm sau khi Nhật đầu hàng. Không tuyên
bố chiến tranh thì làm sao có ký “hiệp ước hòa bình”? Hòa ước Nhật-Trung
12-8-1978 chỉ nhằm “bình thường hóa quan hệ ngoại giao hai bên” chứ không hề có
việc chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai bên. Dĩ nhiên hiệp ước này không
nói về vấn đề lãnh thổ.
Trong 'Công hàm
Phạm Văn Đồng' lãnh đạo VNDCCH không nhắc tới Hoàng Sa, Trường Sa
Trong khi đó
nhà nước Dân quốc ký hiệp ước hòa bình với Nhật vào ngày 24-4-1952 tại Đài Bắc.
Nội dung hòa ước, điều 1 xác định chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai
nước. Về vấn đề lãnh thổ, điều 2, Nhật tuyên bố từ bỏ chủ quyền ở Đài Loan,
Bành Hồ cùng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này phù hợp nội dung của
Hòa ước San Francisco, tức là Nhật tuyên bố từ bỏ các lãnh thổ kể trên nhưng
không xác định là trả cho nước nào.
GS Joele cũng
nại hiệp định Genève 1954, theo đó các nước, bao gồm Trung Quốc, cam kết tôn
trọng "nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam ."
Điều cần làm
sáng tỏ là “lãnh thổ” của nước Việt Nam được hiệp định Genève 1954 có xác định
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam hay không ?
Ý nghĩa công
hàm 1958
Khi tại hiệp
định Genève 1954, mọi người cùng đồng ý Việt Nam là một quốc gia duy nhứt. Theo
nguyên tắc “quốc gia duy nhứt”, hai bên đều có trách nhiệm như nhau trong việc
bảo vệ lãnh thổ, cho dầu vùng lãnh thổ này do miền Nam hay miền Bắc quản lý. Vì vậy khó
có thể để GS Joële Nguyễn bào chữa rằng vì “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không
phải là Chính phủ có thẩm quyền đối với vùng lãnh thổ” cho nên “Chúng tôi không
thể từ bỏ cái gì mà chúng tôi không có thẩm quyền”.
Mặt khác, đây
không phải là một tuyên bố “từ bỏ chủ quyền” để đặt lại thẩm quyền của ông Phạm
Văn Đồng. Đây là ý kiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tuyên bố của Trung
Quốc về chủ quyền và hải phận.
Công hàm 1958
là một tuyên bố chính trị, như GS Joële Nguyễn đã nói, hay là một tuyên bố đơn
phương mà phía tuyên bố có ý muốn ràng buộc với những gì đã tuyên bố và nếu có
dịp sẽ thực hiện các lời hứa đó?
Nếu ta xem xét
lại thái độ và các hành động liên quan đến vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa từ năm
1958 đến 1975, ta thấy lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là liên tục và
nhứt quán, thể hiện qua các tài liệu báo chí, qua các tập bản đồ… tất cả đều
nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Vì vậy công hàm 1958 không
phải là một tuyên bố chính trị mà là một tuyên bố ý định mà phía tuyên bố đã liên
tục tôn trọng nó trong một thời gian dài gần 3 thập niên.
Việt Nam hiện nay đã thông qua Luật Biển 2012, theo
đó khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam .
Điều này không
mâu thuẫn với lịch sử nhưng mâu thuẫn với thái độ trước đây của nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Để tránh việc này, nhà nước CHXHCN Việt Nam cần phải “hóa
giải” hiệu lực công hàm 1958, qua việc kế thừa danh nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa.
Trong các bạch
thư về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước CHXHCN Việt
Nam chỉ đưa ra các bằng chứng bảo vệ chủ quyền, qua các thời kỳ nhà nước phong
kiến, nhà nước bảo hộ Pháp, Đế quốc Việt Nam và nhà nước Việt Nam Cộng hòa.
Không thấy dòng nào nói về công lao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngoài các
hành vi tương ứng với việc từ bỏ chủ quyền.
Kế thừa danh
nghĩa Việt Nam Cộng Hòa để có chính danh, vì danh có chính thì ngôn mới thuận.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.