Thi sĩ Nguyễn
Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi tiếng nhất của Việt
Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7 giờ 17 phút sáng ngày
2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và
tác phẩm "Hoa Địa Ngục".
Ông sinh ngày
27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, học hành và sinh sống ở Hà Nội, Hà Nam, Hải
phòng với song thân phụ mẫu và một người chị.
Ông từng bị
chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội “phản tuyên
truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào tháng 11 năm
1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977. Ông viết
lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.
Tháng 7-1979,
ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông không đi tị nạn
ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm 12 năm, với chế
độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian bị giam cầm trước
đó.
Tập thơ “Hoa
địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư Patrick Honey
(1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ biến trên báo
chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản bằng Anh, Pháp,
Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam .
Từ năm 1981 Tổ
chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human
Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động chiến dịch kêu gọi
quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp của ông.
Suốt thời gian
đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt giam giữa rừng,
kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc
thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.
Được anh ruột
bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập “Hoa địa ngục”
thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian cầm tù sau . GS
Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản song ngữ. Ông viết
tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii
xuất bản trong “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”
Thi sĩ
"ngục sĩ" Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn Quốc tế
vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập truyện”. Tác
phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ
tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường xuyên với những di
chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi nhiều nơi để nói chuyện
về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu
và những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông,
ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam
Xã hội Chủ Nghĩa.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tập thơ
Hoa Địa Ngục...
Từ hơn 20 năm qua, tên tuổi
Nguyễn Chí Thiện đã được công chúng biết đến như một nhà thơ của lao tù. Ông
lấy chất liệu cho thơ từ những đoạn đời khổ ải, những mảnh đời tan nát, từ
những ngày những tháng và những năm trong ngục tối, trong cùm kẹp, trong đói
khát hận thù không phải chỉ của ông, mà của cả những bạn tù đồng cảnh ngộ. Ông
tâm sự thế này về sự hình thành của thơ:
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tại buổi ra mắt tập thơ
Hoa Địa Ngục
Triệu cuộc đời khổ oan,
Nát tan trăm ngàn mảnh
Chắp lại mới hóa thành
Mấy vần thơ ai oán
Nát tan trăm ngàn mảnh
Chắp lại mới hóa thành
Mấy vần thơ ai oán
Nàng thơ của ông không yêu kiều diễm lệ, mà là “một nàng thơ khốn khổ, nhục nhằn,” đói khát, hèn mọn:
Nàng thơ
của
tôi khát thèm rau muống
Mộng bát cơm đầy, quý đói hay ma?
Mộng bát cơm đầy, quý đói hay ma?
Nhưng chính
cái đơn sơ, giản dị mà lại không tầm thường của thơ Nguyễn Chí Thiện đã khiến
thơ ông đi thẳng vào tâm hồn người đọc và được độc giả khắp nơi đón nhận như
một ngùơi thân. Không rào đón, không lễ nghi, không cần giới thiệu.
Trúơc khi tên Nguyễn Chí Thiện được biết đến, ngừơi Việt hải ngoại đã xúc động với một tập thơ không tên, không tác giả, được phổ biến dưới nhan đề được lấy từ một câu thơ trong tập, là “Tiếng Vọng từ đáy vực,” rồi “Chúc thư của một người ViệtNam .”
Lúc đó là tháng chín năm 1980. Mặc dù không biết tên tác giả, nhưng những tâm tình hực lửa lao tù đã nhanh chóng được chắp cánh bay khắp địa cầu nhờ sự tiếp tay phổ biến của các nhà báo, dịch giả, nhạc sĩ cũng như những người quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt nam mà tập thơ là một bản cáo trạng viết bằng máu và nước mắt.
Bốn năm sau, tập thơ mới mang tên đích thực của nó là Hoa Địa Ngục với tác giả đích thực là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư tiết lộ của giáo sư P.J. Honey ở Anh quốc, bởi chính Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội với bức thư ngắn mở đầu nguyên văn như sau:
Trúơc khi tên Nguyễn Chí Thiện được biết đến, ngừơi Việt hải ngoại đã xúc động với một tập thơ không tên, không tác giả, được phổ biến dưới nhan đề được lấy từ một câu thơ trong tập, là “Tiếng Vọng từ đáy vực,” rồi “Chúc thư của một người Việt
Lúc đó là tháng chín năm 1980. Mặc dù không biết tên tác giả, nhưng những tâm tình hực lửa lao tù đã nhanh chóng được chắp cánh bay khắp địa cầu nhờ sự tiếp tay phổ biến của các nhà báo, dịch giả, nhạc sĩ cũng như những người quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt nam mà tập thơ là một bản cáo trạng viết bằng máu và nước mắt.
Bốn năm sau, tập thơ mới mang tên đích thực của nó là Hoa Địa Ngục với tác giả đích thực là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư tiết lộ của giáo sư P.J. Honey ở Anh quốc, bởi chính Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội với bức thư ngắn mở đầu nguyên văn như sau:
“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm công sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.”
Ngay sau khi đưa được tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội, tức là đã chắp cánh được cho tâm tình của mình đi xa, nhà thơ bị đưa thẳng vào xà lim vừa lúc vừa bước chân ra khỏi sứ quán. Chân bước vào tù nhưng lòng hân hoan mở hội, Nguyễn Chí Thiện đã tả lại tâm tình của mình như sau:
Những lời quý
thính giả vừa nghe được chính nhà thơ đọc cuối tuần qua tại Virginia, nhân dịp
Tổ hợp xuất bản miền đông Hoa kỳ tổ chức buổi ra mắt “Hoa địa Ngục toàn tập”
gồm hơn 700 bài thơ, cùng nhiều hình ảnh và tư liệu quý giá của một con người
lấy trái tim, khối óc, máu, mồ hôi và sự đau đớn của chính mình để kết tinh
thành thơ.
Buổi ra mắt còn nhằm trả lời cho một thắc mắc không biết xuất phát từ đâu,
nhưng đã loan truyền trong dư luận đồng bào hải ngoại, như lời đại diện nhà
xuất bản, nhà văn Trương Anh Thụy cho biết như sau:
Trả lời cho những thắc mắc ấy, ngoài những hình ảnh và tư liệu được trưng bày,
nhà thơ còn tuyên bố sẵn sàng làm các cuộc xét nghiệm để chứng minh chính mình
là người đã đưa tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội hồi tháng sáu năm
1980.
Xét nghiệm là chuyện tương lai, không biết có cần làm hay không, nhưng trước
mắt, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã chinh phục người nghe bằng chuyện thực xẩy ra
trong những đoạn đời tù mà ông sử dụng như nguyên liệu thô để đưa vào thơ, và
nhân thế giải thích ý nghĩa của những lời thơ có khi rất giản dị, nhưng mang
trong nó những kinh nghiệm vô cùng đớn đau khắc nghiệt.
Trước hết, ông cho biết lý do tại sao phải làm thơ. Thơ là phản ánh những kinh
nghiệm đoạ đầy của tác giả, nên đau khổ chính là cái nôi của thơ. Và bởi nhà
thơ coi thơ như một tiếng nói phản kháng, nên thơ của ông không cao siêu, cũng
không thơ mộng.
Nếu Phùng Quán từng sống trong đau khổ, và phải vịn câu thơ mà đứng dậy, thì
Nguyễn Chí Thiện cũng nhờ thơ mà thóat được sự tuyệt vọng bởi, như một quy
luật, khi sự tuyệt vọng đã được nói lên thành lời, thì nó đã thăng hoa để mang
cứu rỗi cho chính ngừơi tuyệt vọng:
Hơn 700 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện quả nhiên là tiếng gọi từ đáy vực, là hoa
của địa ngục và là chúc thư của một con người Việt Nam đau khổ.
Tác giả 'Hoa địa ngục' - Nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện qua đời
QUẬN CAM, CA
2-10 (NV) - Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục, vừa
qua đời vào khoảng 8 giờ sáng Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012, tại một bệnh viện ở
thành phố Santa Ana, quận Cam, California, thọ 73 tuổi.
Nhà thơ Nguyễn
Chí Thiện vào bệnh viện vào sáng sớm ngày 26 Tháng Chín, 2012. Tại đây, bệnh
viện điều trị chứng nhiễm trùng đường phổi nhưng ông vẫn thấy đau ởngực. Một số
xét nghiệm cả về tim mạch, chụp phim và lấy mẫu phổi (biopsy) truy tìm ung thư
cũng đã được thực hiện.
Tuy nhiên, cho
đến sáng ngày Thứ Hai, 1 Tháng Mười 2012 thì bệnh trở nặng. Mười giờ sáng Thứ
Hai, Linh Mục Cao Phương Kỷ đã làm các nghi thức cần thiết để ông trởthành một
tín đồ Công Giáo theo ước nguyện trước sự chứng kiến của ông bà Bác Sĩ Trần Văn
Cảo, Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Trang, bà Lâm Thiên Hương, nhà văn Trần Phong Vũ.
Người kề cận
bên nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong phút lâm chung và cũng là người vuốt mắt cho
ông là nhà văn Trần Phong Vũ.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (bên phải) gặp dịch giả
Huỳnh Sanh Thông (bên trái) tại thành phố New
Haven , Connecticut ,
hồi Tháng Tư 2005.
Ông Nguyễn Chí
Thiện sinh năm 1939 tại Hà Nội. Ông có một người anh là sĩ quan cao cấp VNCH
đang ở sống ở tiểu bang Virginia , hai người
chị ở Việt Nam .
Ông bị tù tổng
cộng 27 năm qua nhiều nhà tù miền Bắc, đặc biệt là nhà tù nổi tiếng Cổng Trời.
Lần ra khỏi tù sau cùng của ông là ngày 28 Tháng Mười 1991.
Khi ông chạy
vào Tòa Ðại Sứ Anh Quốc ở Hà Nội đưa tập thơ và xin tị nạn chính trị, viên chức
tòa đại sứ chỉ nhận tập thơ để chuyển ra ngoại quốc và cho biết họ không giúp
ông tỵ nạn chính trị được. Bước ra khỏi trụ sở Tòa Ðại Sứ Anh thì ông bị công
an CSVN bắt giữ liền.
Nhờ sự can
thiệp đặc biệt của nhiều nhân vật quốc tế, ông đã được chế độ Hà Nội thả cho đi
Mỹ định cư Tháng Giêng 1995.
Ông đã đem
kinh nghiệm về chế độ Cộng Sản, kinh nghiệm tù đày trình bày với các cộng đồng
người Việt khắp nơi từ Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Châu.
Tập thơ Hoa
Ðịa Ngục đã được dịch ra Anh, Pháp, Ðức và Hòa Lan ngữ.
Sau khi đến
Mỹ, năm 2001 ông cho xuất bản tập truyện Hỏa Lò. Tập truyện Hai Chuyện Tù được
ông xuất bản năm 2008.
Ông Nguyễn Chí
Thiện từng gặp cha Chính Vinh, cha Nguyễn Văn Lý trong nhà tù CSVN.
Nhân cách và
cái chết của cha Chính Vinh tại nhà tù Cổng Trời (tỉnh Hà Giang) được nhiều
người viết hồi ký kể lại trong đó có ông Kiều Duy Vĩnh. Ông Vĩnh là một trong
rất ít người thoát chết trở về sau nhiều năm bị giam ở trại Cổng Trời, mới qua
đời hồi Tháng Bảy vừa qua và cũng đã chịu các phép bí tích để trở thành tín đồ
Công Giáo.
Những kỷ niệm
cũng như nhân cách của cha Chính Vinh, Linh Mục Lý đã gây ấn tượng sâu sắc thúc
đẩy nhà thơ Nguyễn Chí Thiện chọn đức tin Công Giáo và lấy tên thánh là Thomas
More.
Tác giả Hoa
Địa Ngục
Vào năm 1980,
người ta thấy xuất hiện ở hải ngoại một tập thơ không có tên tác giả, xuất bản
bởi “Ủy Ban Tranh Ðấu cho Tù Nhân Chính Trị tại Việt Nam ”. Tập thơ mang tựa đề “Tiếng
Vọng Từ Ðáy Vực” mà tác giả là “Ngục sĩ” hay khuyết danh. Ít tuần lễsau, tạp
chí Văn Nghệ Tiền Phong đưa ra một ấn bản cùng một nội dung nhưng với tựa đề
“Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam”.
Tựa đề tập thơ
Hoa Ðịa Ngục có từ khi Yale Center for International & Area Studiesấn hành
bản Anh ngữ Flowers From Hell do ông Huỳnh Sanh Thông dịch. Sau người ta mới
biết tác giả tập thơ là Nguyễn Chí Thiện.
Những bài thơ
của ông trong tập Hoa Ðịa Ngục gây xúc động sâu xa trong tâm thức người đọc về
cái đói, sự đày đọa ác độc, sự gian ác của chế độ Cộng Sản đối với con người.
Tập thơ thoát
ra khỏi Việt Nam khi nhà thơ lén lút mang tới Tòa Ðại Sứ Anh tại Hà Nội và được
Giáo Sư Patrick J. Honey thuộc đại học London sang Việt Nam Tháng Bảy năm 1979
và mang về. Kèm trong tập thơ 400 trang viết tay này là lá thư mở đầu với lời
ngỏ:
“Nhân danh
hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải
chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm cộng sản, tôi xin ông
vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Ðó là
kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị
giam cầm.” (TN)
Hoa địa
ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn
mồ hôi chó ngựa, lệ
ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù bệnh, cơ
hàn
Hương ẩm mốc, mầu
nhở nham, xám xịt.
Tôi nhắm mắt...
Tôi nhắm
mắt nằm yên không ngủ
Kẻng
báo rền vang, sáng tự bao giờ
Tôi nằm
yên không nghĩ ngợi không mơ
Mà lịm
chết trong bóng mờ ủ rũ:
Bóng mẹ
cha già đớn đau hóa mụ
Đêm tối
mênh mông đóm lửa vật vờ
Bóng cuộc
đời tôi lặng vắng
như tờ
Thất
thểu, bơ vơ, khóc cười lỡ dở
Bóng nhợt
xám vài mối tình khổ sở
Lảo
đảo đi về, tuyệt
vọng âm u
Bóng
hình tôi ho ra máu, lưng gù
Sẽ có một ngày
Sẽ
có một ngày con người hôm nay
Vất
súng, vất cùm, vất cờ,
vất Đảng
Đội
lại khăn tang, quay ngang vòng nạng
Oan
khiên!
Về
với miếu đường, mồ
mả, gia tiên
Mấy
chục năm trời bức
bách lãng quên
Bao hận
thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan, tan về cao rộng
Tất
cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ
lọc lừa, kẻ bạo lực
xô chân
Sống
sót về đây an nhờ phúc phận
Trong
buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
Đứng
bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ
bùi ngùi hối hận.
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cơ hồng!
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng tiến quân ca
Và quốc tế ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cơ hồng!
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng tiến quân ca
Và quốc tế ca
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!
Thơ Của Tôi
Thơ
của tôi không phải là thơ
Mà là
tiếng cuộc đời
nức nở
Tiếng
cửa nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng
khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng
đất vùi đổ xuống
lấp niềm mơ
Tiếng
khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng
răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng
dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng
tim buồn thoi thóp đập bơ
vơ
Tiếng
bất lực trước muôn ngàn sụp
lở
Toàn tiếng
của cuộc đời sống
dở
Và chết
thời cũng dở, phải
đâu thơ! (1970)
Trong bóng đêm
Trong
bóng đêm đè nghẹt
Phục
sẵn một mặt trời
Trong
đau khổ không lời
Phục
sẵn toàn sấm sét
Trong lớp
người đói rét
Phục
sẵn những đoàn quân
Khi vận
nước xoay vần
Tất
cả thành nguyên tử. (1976)
Từ Vượn Lên Người
Từ
vượn lên người mất
mấy triệu năm
Từ
người xuống vượn mất
bao năm?...
Xin mời
thế giới tới thăm
Những
trại tập trung núi rừng sâu thẳm
Tù nhân
ở truồng từng bày đứng
tắm...
Loại
vượn này không nhanh mà rất chậm
Khác vượn thời tiền sử
xa xăm.
Chúng
đói chúng gầy như những
cái tăm
Và làm
ra của cải quanh năm
Xin mời
thế giới tới thăm. (1967)
Nếu trời còn
Nếu
trời còn để có một
ngày mai.
Tôi sẽ
kể chuyện đêm dài khủng
khiếp.
Cho thế
hệ hiện nay cùng đàn sau kế tiếp.
Giật
mình thức tỉnh, thương đau.
Phẫn
nộ trào dâng, dốc sức
cùng nhau.
Đánh phọt
óc con rắn hồng độc hại.
Giải
phóng cả một phần ba nhân loại.
Bị
nó cuốn tròn sống trong ngắc
ngoải (1960).
Nhắm mắt là...
Nhắm
mắt là con nhìn thấy ngay
Mẹ
mắt mờ run bước cạnh
thầy
Căn gác
âm thầm ngao ngán quá
Hai
bóng già nua tối lại ngày.
Mơ
về căn gác yêu thương ấy
Tan nát
lòng con lắm, mẹ thầy
Đau ốm,
hao gầy, đôi mắt lóa
Đêm
ngày trông đợi đứa con xa
Giam
hãm trong rừng cây vách đá
Con vẫn
hình dung thấy cảnh nhà
Lệ
ứa hai hàng hoen ướt má
Mẹ
khóc vì con mãi, mẹ già!
Thầy
hỡi, con hình dung rõ quá!
Thờ
thẫn vào ra, nét mặt gầy
Hình
bóng muôn vàn đau xót ấy
Quặn
buốt lòng con tới đọa
đày! (1968)
Tôi lấy thơ
Tôi lấy
thơ thuở còn đi học
Buổi
gặp nhau đầu Thơ
đã biết yêu tôi
Thơ
của tôi thời ấy đẹp
như Kiều
Lộng
lẫy như Tần cung nữ
Những
cô Lý cô Hình cô Sử
Tôi
quên, tôi quá yêu rồi
Thơ
thường buồn,
Thơ
cũng như tôi
Chỉ
có bạn bè là Mơ và Mộng
Thơ
lấy tôi vì tôi không thể sống
Không
Thơ an ủi bên mình
Đám cưới chúng tôi một đám cưới tình
Chỉ
có Mộng Mơ phù dâu phù rể
Thơ
giờ đã tay bồng tay bế
Tù lao
đầy đọa xanh gầy
Thơ
dọn nhà ra khỏi cung mây
Từ
buổi mộng mơ hóa thành ngu xuẩn!
Đời
chê Thơ nhiều buồn đau, hờn
giận
Không
chịu bôi hồng trát phấn
Bán
mình cho Đảng nuôi thân
Gắn
bó cùng tôi Thơ khổ vô ngần
Chia sẻ
bao sầu bao hận
Thơ
chịu âm thầm chung thủy
tận khi nao?
--Tận
khi nào
Anh nói
với Thơ lời dối
trá." (1963)
Tôi Tin Chắc Một Điều
Tôi tin
chắc một điều
Một
điều tất yếu
Là ngày
mai mặt trời sẽ chiếu
Tôi lại
nghĩ một điều
Một
điều sâu thẳm
Là đêm
tàn Cộng Sản tối tăm
Có thể
kéo dài hàng mấy mươi năm
Và như
thế sẽ buồn lắm
lắm
Cho kiếp
người sống chẳng bao lăm! (1969)
Đau Đớn Lắm
Đau đớn
lắm cái lầm to thế
kỷ
Sử
sách ngàn đời còn mãi khắc ghi!
Mấy
chục năm trời xương máu đổ đi
Thử
hỏi dân đen thu được những
gì?
Ngoài một
số từ lừa mị
kẻ ngu si!
Người công nhân trước gọi
cu li
Người lính cũ nay gọi là chiến
sĩ
Song vẫn
vác, vẫn khuân, vẫn đói nghèo, vẫn
bị
Đẩy
đi chiến trường chết
hoài, chết phí
Cho một
lũ trung ương lợn ỉ!
Đau đớn
lắm cái lầm to thế
kỷ
Sử
sách ngàn đời còn mãi khắc ghi! (1970)
Lãnh Tụ
Lãnh tụ
béo nục
Dân đen
gầy rục!
Lao động
hùng hục
Họp
hành liên tục
Đói ăn
khắc phục
Kêu ca
tống ngục!
Cộng
sản đánh gục
Đời
mới hết nhục! (1962)
Không có gì quý hơn độc lập tự do
"Không
có gì quý hơn độc lập
tự do
Tôi biết
nó, thằng nói câu nói đó
Tôi biết
nó, đồng bào miền Bắc
này biết nó
Việc
nó làm, tội nó phạm ra sao.
Nó đầu
tiên đem râu nó bện vào
Hình
xác lão Mao lông lá
Bàn tay
Nga đầy băng tuyết giá
Cũng
nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không
phải xoa đầu mà túm tóc nó từ
xa
Nó đứng
không yên, tất bật, điên đầu
Lúc rụi
vào Tầu, lúc rúc vào Nga
Nó gọi
Tầu Nga là cha anh nó
Và tình
nguyện làm con chó nhỏ
Xông
xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh
Ôi độc
lập tự do!
Xưa
cũng chỉ vì quý hai thứ đó
Đất
Bắc mắc lừa mất
vào tay nó
Nhưng
nay mà vẫn còn có người mơ
hồ nghe nó
Nó mới
vạn lần cần nguyền
rủa thật to" (1968)
Hôm nay 19-5
Hôm nay
19-5
Tôi nằm
Toan
làm thơ chửi Bác
Vần
thơ mới hơi phang phác
Thì tôi
thôi
Tôi
nghĩ Bác
Chính
trị gia sọt rác
Không
đáng để tôi
Đổ
mồ hôi
Làm thơ
Dù là
thơ chửi Bác
Đến
thằng Mác
Tổ
sư Bác!
Cũng chưa
được tôi nguệch ngoạc
vài câu!
Thôi hơi
đâu
Mặc
thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt
râu, xoa đầu, mơn trớn
Bác.
Thế
rồi tôi đi làm việc khác. Kệ
cha Bác!" (1964)
Khi Mỹ chạy
Khi Mỹ
chạy bỏ miền Nam cho Cộng
sản
Sức
mạnh toàn cầu nhục
nhã kêu than
Giữa
tù lao, bệnh hoạn, cơ
hàn
Thơ
vẫn bắn, và thừa dư
sức đạn!
Vì thơ
biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn
Không
giành cho thế lực yêu gian
Tuyệt
vọng dẫu lan tràn
Hy vọng
dẫu tiêu tan
Dân nước dẫu đêm dài ai oán
Thơ
vẫn đó, vẫn gông cùm trên ván
Âm thầm,
thâm tím, kiên gan
Biến
trái tim thành "chiếu yêu kính" giúp nhân gian
Nhận
rõ nguyên hình Cộng sản
Tất
cả suy tàn, sức thơ
vô hạn
Thắng
không gian mà thắng cả thời
gian
Sắt
thép quân thù năm tháng rỉ han! (1975)
Vì ấu trĩ
Vì ấu
trĩ, thờ ơ, u tối,
Vì muốn
an thân, vì tiếc máu xương...
Cả
những kẻ đã nằm trong mả
Và những
bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra
Chúng sẽ
có quyền nguyền rủa
lũ ông cha
Đã để
chúng sa xuống hầm tai vạ.
Lỗi
lầm tại ai? Xét ra tất cả,
Mấy
ai người đem hết tâm can...
Ai đứng
dậy diệt trừ lũ quỉ,
Ai trái
tim lân mẫn vạn dân tàn? (1975)
Nếu có trời
Nếu
có trời, đời tôi phải khác
Đâu bị
đói nghèo, tù lao tan tác!
Vì tôi
chưa làm việc gì độc
ác
Và luôn
sống với tâm tình chất phác
Dù toàn
gặp những điều bội
bạc
Và lòng
buồn như đêm sa mạc! (1960)
Không có chỗ
Không
có chỗ trên con tàu quả đất
Tôi là
người hành khách bơ vơ
Lỡ
chuyến, lầm ga, mất cắp,
bây giờ
Tôi ủ
rũ trên sàn toa lạnh ngắc
Cái toa
đen dành cho súc vật (1967)
Tôi khổ gấp trăm lần
Tôi khổ
gấp trăm lần hơn
Đại Thánh
Mang
trên đầu đủ thứ mũ kim cô
Thần
chú đau thương: "Tất cả
tan tành!".
Khoan
vào óc đêm ngày muôn vạn lỗ!
Đời
tôi giữa Ngũ Hành Sơn cấm
cố
Không
mong Đường Tam Tạng tới
buông tha
Tự
mình tôi, tôi phải cứu tôi ra
Đập
tan hết để xoay vần mệnh
số!
Hoa quả
sơn trong cõi lòng nát đổ
Là một
nguồn an ủi lớn
bao la
Với
Tề Thiên đó chỉ là đất
tổ
Với
tôi là trời mộng ước cao xa! (1969)
Một tay em trổ
Một
tay em trổ: Đời xua đuổi!
Một
tay em trổ: Hận vô bờ!
Thế
giới ơi! người có thể
ngờ?
Đó là một
tù nhân tám tuổi!
Trên bước đường tù, tôi rong ruổi
Tôi gặp
hàng ngàn em bé như em! (1971)
Tôi, một kẻ
Tôi, một
kẻ không gia đình, bè bạn
Sống
một mình, bệnh hoạn
xanh xao
Chai nước con, chiếc điếu
hút thuốc lào
Chiếc
giường vải, chiếc bàn bằng
gỗ cũ
Đồ
đạc tôi thế là tạm
đủ
Cuộc
sống nghèo hèn, không ước không mơ
Ngoài
thời gian dạy học
vài giờ
Tôi tìm
kiếm niềm khuây trong sách vở
Ít ra
khỏi căn buồng con tôi ở
Chủ
nhật, ngày thường tôi thấy
như nhau
Những
khi buồn tôi đem điếu ra lau
Hoặc
khe khẽ ngâm một vài câu thơ
cổ
Mỗi
tháng một lần tôi mang phiếu sổ
Tiêu
chuẩn thịt, đường một
lạng mua ăn
Trong
lòng tôi chỉ một nỗi
băn khoăn
Sợ
bị bắt, bị nghi là bất
mãn." (1966)
Trên mảnh đất
Trên mảnh
đất, Đảng gieo mầm tội
lỗi!
Trong
lành cũng phải tanh hôi!
Trẻ
con chưa nứt mắt đã tù rồi!
Bạo
lực đi về rất vội!
Chết
trận, chết tù, hỡi
ơi xã hội!
Biết
bao là vợ góa, con côi,
Bán
trôn rồi lại bán cả mồ hôi,
Mà đói
rét vẫn quần cho sớm tối!
Mảnh
đất chờ trông và sám hối
Thức
giả tiêu sầu chai nước lã đun sôi! (1964)
Có phải em là
Có phải
em là em bé?
Bố
tập trung xa cách đã mười năm?
Bố
dượng em là bác da ngăm ngăm,
Là đồng
chí bí thư nơi mẹ em công tác?
- Anh
là bạn tù của bố
em, từ tỉnh khác
Về
tìm em để nhắn hộ tin...
Bố
em giờ đau ốm cần
xin
Ít ký
ninh, ít đường đen bồi dưỡng!
Bố
dặn mẹ hãy an lòng, đừng ngượng
Bố
hiểu cảnh tình rất thương mẹ và em
Hãy nín
đi em đừng khóc!
Bố
sắp về rồi, bố
sẽ cho em đi học,
Mua cho
em đôi dép em đi...
Em sẽ
được là thiếu nhi quàng khăn đỏ
Là cháu
ngoan bác Hồ em có thích không?
--Có
thích (1976)
Những thiếu nhi
Những
thiếu nhi điển hình chế
độ
Thuở
mới đi tù trông thật ngộ!
Lon xon
không phải mặc quần
Chiếc
áo tù dài phủ kín chân
Giờ
thấm thoát mười xuân đã lớn
Mặt
mũi vêu vao, tính tình hung tợn!
Mở
miệng là chửi bới
chẳng từ ai!
Có thể
giết người vì củ
sắn củ khoai! (1966)
Bác Hồ rồi lại
Bác Hồ
rồi lại Bác Tôn!
Cả
hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa
hai cái mặt bành bành
Những
khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò! (1970)
Đồng lầy
Ngày ấy,
tuy xa mà như còn đấy
Tuổi
hai mươi, tuổi bước vào đời
Hồn
lộng cao, gió thổi chơi
vơi
Bốn
phía bao la chỉ thấy
Chân
mây, rộng mới tuyệt vời!
Ngất
ngây, làm sao ngờ tới
Bùn đọng
hồ ao mạn dưới phục chờ!
Tuổi
hai mươi, tuổi của
không ngờ
Không sợ!
Viển
vông đẹp tựa bài thơ
Mơ
ước
Đợi
chờ
Vĩ đại...
Nhưng
rồi một sớm đầu
thu mùa thu trở lại
Tuổi
hai mươi mắt nhìn đời trẻ
dại
Ngỡ
cờ sao rực rỡ
Tô thắm
màu xứ sở yêu thương.
Có ngờ
đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo
phá bờ kim cổ
Tiếng
mối giường rung đổ
chuyển non sông
Mặt
trời sự sống
Thổ
ra từng vũng máu hồng
Ôi tiếc
thương bao mùa lúa vun trồng
Một
mùa thu nước lũ
Trở
thành bùn nước mênh mông
Lớp
lớp sóng hồng man dại
Chìm
trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ,
mồ hôi, rớt rãi
Đi về
ai nhận ra ai!
Khiếp
sợ, sửng sờ, tê dại!
Lịch
sử quay tít vòng ngược lại
Thời
hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn
đấu trường mọc
dậy giữa ban mai
Đúng
lúc đất trời nhợt nhạt
Bọn
giết người giảo
hoạt
Nâng cốc
mừng thắng lợi
liên hoan
Điệu
nhạc cơ hàn thăm thẳm miên man
Điệp
khúc lìa tan thúc giục
Ngục
tù cất bước oan khiên
Thành
thị thôn quê sơn hải
trăm miền
Hội
tụ!
Bãi sú,
bờ lau, rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây,
Đạo
lý tối cao ở xứ đồng
lầy
Là lừa
thầy, phản bạn
Và tuyệt
đối trung thành vô hạn
Với
Đảng, với Đoàn, với
lãnh tụ thiêng liêng
Hạt
thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng
Họa,
phúc toàn quyền của Đảng
Dần
dà năm tháng
Mắt
ngả sắc vàng, da sắc xám
Đi về
ai nhận ra ai?
Ôi ngàn
hoa run tái!
Đáng thương giữa chốn
đồng lầy
Sậy
úa lau gầy, lạc loài thảm hại
Rồi
đây, khi mặt trời thức
dậy
Chắc
là hoa đã tàn phai
Chẳng
còn được thấy!
Tôi vẫn
ngồi yên mơ màng như
vậy
Mặc
cho đàn muỗi quấy rầy
Bóng tối
lan đầy khắp lối
Không
còn phân biệt nổi
Trâu
hay người lặn lội phía bờ
xa
Gai ốc
nổi trên da
Cái họa
áo cơm không chừa ai hết!
Buồn
nghĩ tới chuyện xưa
Thần chết
Cùng
lão tiều đốn củi già nua
Tôi ngước trông xem có một ngôi chùa
Ngôi
chùa đã trở thành huyễn mộng.
Con ác
điểu hoài nghi xù đôi cánh rộng
Truy
lùng mồ mả cha ông
Thánh
thất miếu đường xáo động
Con
thuyền chở đạo nghiêng chao
Sóng
gió thét gào, man rợ
Tiếng
sinh linh nức nở, âm thầm
Mặt
đất tím bầm, tiết
đọng
Lá cờ
lật lọng
Nhân buổi
dương tàn âm thịnh cao bay!
Thần
tượng cuồng quay, hình thay lốt
rũ
Hang Pắc-Bó
hoá thành hang ác thú
Bác Hồ
già hóa dạng bác Hồ Ly
Đôi dép
lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ
ka-ki vàng, vàng như mắt dân đen
Qủy
quái, đê hèn, lừa đảo!
Gia tài
tra khảo cướp trơn tay
Từ
buổi Qủy vương hớn
hở mặt mày
Đứng
trước Đảng kỳ trịnh trọng
Đọc
lời khai mạc thủa
hoang sơ
Tụ
tập đảng viên đại hội
dưới cờ
Nguyện
đem cuộc đời hơi thở
Đạp
bằng, phá vỡ
Ngàn
năm văn hiến ông cha.
Ảo vọng dựng
lên một thứ sơn hà
Mê muội,
nặng nề không hề nghiêng ngả
Nó lùa,
nó thả
Lũ mặt
người dạ thú xông ra
Khiến
đồng xa
Nơi
mấp mô mồ mả
Các hồn
ma cũng hả vong linh
Vì thấy
địa ngục của mình
Còn ít
nhục hình hơn dương thế!
Mạng
sống không bằng con giun con dế
Đầu
ngửng lên tuy nhìn thấy trời
xanh
Mà chân
không thể nào rút khỏi
Vũng lầy
man mọi hôi tanh
Ma qủy
rình canh, nghiệt ngã
Rau
cháo cầm hơi, mồ hôi tầm
tã
Bọn
sậy lau đã chán cả chờ
trông
Hầu
cam phận sống trong bùn xám
Đời
càng u ám
Qủy
vương càng đình đám liên hồi
Ôi, dần
dà tôi không phải là tôi
Một
khối rũ mòn nhức nhối
Mang đầy
mộng ước thiu ôi.
Nếu
tôi đổ mồ hôi
Mồ
hôi sẽ hòa máu phổi
Nhưng
những niêu cơm quá vơi
mà Đảng đem phân phối
Không
nhường thịt gân một
chỗ để đàn hồi!
Bao đêm
rồi tôi nguyện luyện
hồn tôi
Trút bỏ
buồn đau tiếc hối
Nén dập
hờn căm dữ dội
Ngày
đêm dìm luộc thân tôi
Nhão nhừ,
nóng hổi!
Nhưng
làm sao trút và nén nổi
Nhưng
làm sao điếc, mù, câm nổi
Khi con
người chưa sống được bao nhiêu
Cũng như
khi chưa yêu mến thật
nhiều
Làm sao
biết ghét!
Chỉ
quả bóng xì hơi đã bẹp
Mới
để cho Người - Định
mệnh - dẵm lên trên
Còn những
đại dương sóng dậy vang rền
Chỉ
dịu lắng khi mệt vì bão táp!
Tôi ngồi
yên nghe thời gian chậm chạp
Mang
tâm hồn thấm hết cảnh
trăng xuông
Trên đồng
không nước lội sương buông
Cây cỏ
lạnh mờ, hoang vắng
Ôi những
bờ xa, lời xanh nhạc
nắng
Nếu
có kẻ cho đời là cay đắng
Hãy vào
đây nếm thử vị đồng lầy
Cho dạ
dầy, óc, tim, lưỡi, cổ
Biết
biệt phân tân khổ ngọt
bùi!
Giữa
biển vui không hiểu tiếng
cười
Là những
kẻ cuộc đời chưa
dậy sóng
Trời
cao biển rộng có cũng như không!
Một
tiếng quạ đêm ảo
não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh
hẳn, trở về cơn
ác mộng
Muỗi
nhơn nhơn từng đàn vang tiếng
động
Những
con cưng của ngừng đọng
tối tăm
Chúng
trưởng sinh trong đêm tối nhiều
năm
Nên
chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch nhái vẫn đồng
thanh đểu cáng
Chửi
bới mặt trời, ca ngợi
đêm đen
Lũ sậy
lau còm cõi đứng chen
Hơi
có gió là cúi đầu rạp hết
Bát
ngát xung quanh một mầu
khô chết
Đồng
lầy mỏi mệt
Lặng
câm, lũ kiến đi về
Ôi, cuộc
đời hay một cơn
mê
Mà người, ngựa, trâu, bò giống
nhau đến thế!
Những
chiếc sơ mi bỏ ngoài để
che bụng phệ
Đi về
chễm chệ xe "dim"
Lúc vuốt
xoa
Lúc hăm
dọa
Lúc gật
gù
Với
một lũ lù lù rác rơm ẩm mốc
Những
loài thảo mộc
Ngu ngốc,
ù lì, nhẫn nhục
Nằm
đợi ngày tàn mục thối
tha
Mặc
cuốc kêu thê thảm đêm ngày
Xác gầy,
khổ não!
Bọn
gỗ đó phải chờ
giông bão
Mới
chịu ào ào nhổ rễ đứng
lên
Nhưng
hình như Trời đã bỏ quên
Mảnh
đất đồng lầy xám ngắt
Như
tôi vẫn ngồi đây héo hắt
Mắt
thâm quầng trông ngóng trời xanh
Bốn
chung quanh ếch nhái vẫn đồng
thanh
La ó mong
làm hỏng tim hư óc.
Để
trai tráng say mùi chết chóc
Để
người già yên vui tang tóc
Tóm lại
là để tình nguyện ly tan
Nhưng
mặt trời mùa thu mà như tiết
đại hàn
Súng ống
từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng
lùa đi tan tác thương vong
Mái
ngói, mái gianh lệ thảm
ròng ròng
Nhỏ
xuống bốc hơi trong lòng vạc
bỏng
Đảng
dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng
thều thào, gượng gạo
hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc
liệt, bậy xằng, ức
oan, cay đắng
Dân đen
tay trắng cam đành
Từ
rừng núi hoang vu tới phố
xá thị thành
Từ
hải đảo xa xôi tới ruộng
đồng bát ngát
Màu áo
vàng cảnh sát
Tràn
lan, nhợt nhạt cả màu xanh
Cuộc
sống đồng lầy rợp
rát, nhoét tanh
Bom đạn
chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái cảnh
mười đi, hai ba trở lại
Cái cảnh
một trai giành nhau chín gái
Đương diễn ra và sẽ
còn diễn mãi
Nếu
Đảng còn nắm vận
mạng tương lai.
Lũ sậy
lau xưa chỉ biết thở
dài
Cũng phải
ngước trông đất trời,
vấn hỏi?
Trăng lặn...
sao tàn...
Bình
minh không mong mỏi
Từ
từ xuất hiện trong sương
Một
bình minh héo hắt thảm thương
Đẩy
dân tộc trên giường xuống
đất
Hãy lắng
nghe một điều chân thật!
Bình
minh đây đau khổ nhất địa
cầu
Nó báo
hiệu một ngày không một phút
Thảnh
thơi, thoải mái, ngẩng
đầu.
Bình
minh đấy muôn thủa một
mầu
Nó báo
hiệu mồ hôi kiệt quệ
Những
con người, không, những chiếc
máy thảm thê
Không dầu,
không mỡ
Hỏng
vỡ trước thời gian
Hãy coi
chừng phải giữ
vẻ hân hoan
Tiếng
khóc, tiếng than làm yêu ma run sợ
Tội
chúng phạm vô cùng man rợ
Lộ
ra, ai để chúng sinh tồn?
Nên lo
âu, hốt hoảng, bồn chồn
Chúng
nghe ngóng, bỏ tù tiếng nói
Hỡi
tất cả những chân trời
sáng chói!
Hãy hiểu
rằng yên lặng nơi
đây
Giữa
chốn đồng lầy
Là tiếng
gọi lâm ly đầy tuyệt
vọng
Biết
bao giờ mùa thu lật lọng
Bị
lôi lên dàn lửa trời hè!
Tôi vẫn
chờ trông muôn vạn tiếng
ve
Dạo
khúc tưng bừng báo trước
Mùa hè
khắp nơi đang tiến bước
Tiêu diệt
thu đông
Lấy
lại sắc hồng
Phá cũi
sổ lồng cho đàn chim bất hạnh
Nhưng
giờ đây thu lạnh
Vẫn
thỏa sức tung hoành
Giết
hại màu xanh
Sặc
sụa mùi tanh
Nó dùng
máu hãm những hàng nước mắt
Vắt
những giọt mồ
hôi
Bịt
tiếng người câm bặt
Mong bốn
phương lặng ngắt giữa
cơ hàn!
Để
nó tự do vang dạo khúc đàn
Yêu
ma!
Lừa
bịp người xa
Buốt
óc người gần
Trời
đất ơi, nếu có qủy
thần
Qủy
thần sao dung tha mãi nõ
Đôi lúc
nghe mơ hồ trong gió
Tiếng
đời qua sóng đỏ vọng về
đây
Bao ước mơ chìm chết đã lâu ngày
Lại
nghẹn ngào trỗi dậy
Đau
xót, thương tâm.
Bên
ngoài kia cuộc sống vang ầm
Sao đây
mãi âm thầm trong nấm mộ.?
Phẫn
nộ oằn lên, bao khổ!
Không
gian hỡi, hãy tan tành sụp đổ
Cho thời
gian đừng làm khổ con người
Cho đười ươi, khỉ đột hết
reo cười
Trong tối
đen đầy đọa
Ôi, cái
buổi đất trời giáng họa
Cũng là
ngày hể hả trái tim đau!
Nhưng
gió kể làm gì chuyện bốn
bể năm châu
Chuyện
những chân trời bấy
lâu yêu dấu
Tuyết
ấm rơi, lòng người đôn hậu
Đảo
thần ngời sáng ngọc châu.
Gió hãy
thương kẻ bị đóng trên tọa
độ thảm sầu
Giấc
chân trời mòn mỏi thương đau
Bốn
phía trước sau toàn bóng
Những
người trâu dầm mình trong bùn đọng
Hoặc
trong hầm trong xưởng rũa gân xương
Để
tối về theo lệnh Diêm Vương
Vác bụng
đói tới nghe bầy qủy
dữ
Giả
danh nghĩa là những vì thiên xứ
Đặt
chương trình hút máu mài xương
Nhưng
lấy tên xây dựng thiên đường
Để
mong mộ thêm nhiều nô lệ
mới.
Tôi
không hiểu loài ễnh ương ca ngợi
Cái
thiên đường khủng khiếp
của ma yêu
Được chúng cho công xá bao nhiêu
Mà đêm
tối to mồm, đinh nhức
óc
Ấy cơm cá ma vương đầy xương hóc
Hãy coi
chừng kẻo nuốt khó trôi qua
Cứ
ca đi, hơi lạc điệu bài ca
Là Đảng
ném toàn gia vào hỏa ngục!
Tháng
năm trôi mùa thu ô nhục
Vẫn
kéo dài ngang nửa dãy Trường Sơn.
Chúng
tôi tuy chìm ngụp giữa bùn trơn
Song sức
sống con người hơn
tất cả
Trước sau sẽ vùng lên quật
ngã
Lũ qủy
yêu xuống tận đáy đồng lầy
Huyệt
chôn vùi thu nhục nhã là đây
Hè xuân
sẽ huy hoàng đứng dậy
Dù
chúng tôi hẩm hiu không được thấy
Màu hè
xuân thì đời của chúng tôi
Cũng
làm cho nhân loại đổ mồ hôi
Khi tưởng tới bóng cờ ma đỏ
ối!
Mặt
trời lên cao, lòng tôi nhức nhối
Muốn
cắt ngay cái phần hôi thối
Trên
thân mình dằng dặc của
thời gian
Nhưng
nổi tiếng lì gan
Thời
gian thản nhiên từ khước
Tháng
năm lặng nề lê bước
Xót xa,
ô nhục, đọa đầy.
Tôi muốn
kêu to trong câm lặng đen dày
Cho
nhân loại trăm miền nghe thấy
Ồ ạt đổ
về đây
Lấp
hộ đồng lầy
Diệt
bầy muỗi độc
Ngày
đêm phá hủy hồng cầu
Nhưng
giữa bùn sâu ngập cổ
ngập đầu
Tiếng
kêu cứu khò khè trong cuống họng!
Trong
khi ấy những lời lật
lọng
Của
muôn ngàn ếch nhái vẫn vang ngân
Bịp
bợm xa gần
Năm
châu bốn bể
Tôi biết
thế, nên càng không thể để
Cho thời
gian trì trệ nhấc tôi lên
Tôi xiết
rên, quằn quại, tự tìm đường
Dù có
phải bồi thường bằng
xương thịt
Tôi
không thể an tâm nằm hít
Mùi bùn
đen tanh tưởi khiếp kinh
Bốn
chung quanh yêu qủy nấp
canh rình
Súng ống
sẵn sàng nhả đạn
Con người tôi tiêu điều nứt
rạn
Có sợ
gì viên đạn oan khiên
Giải
thoát bao đau khổ triền miên
Hồn
tôi tới trời quên bay bổng
Màn
thép kia dù không lỗ hổng
Tôi sẽ
dùng răng cắn đứt một
khâu
Dù qủy
yêu bắt được quẳng vạc
dầu
Tôi vẫn
sẽ lao đầu không hối
hận
Dưới bùn sâu, người trâu lận
đận
Đuổi
bắt mặt trời theo lệnh
ma vương
Lũ tiểu
yêu ngang dọc đầy đường
Đốc
thúc, nghe rình lời than tiếng
thở
Thằng
này, sao mặt mày không hớn hO
Thằng
kia, sao dám thở dài?
Lũ
chúng bay phải làm việc bằng
hai
Để
qủy chúa mừng sống
dai trăm tuổi
Giữa
thời gian muôn người đương chết đuối
Lòng cầu
sao nhanh chóng khắp địa
cầu
Đứng
đều lên, ồ tới đánh toang
đầu
Con rắn
đỏ vô cùng hung hiểm
Nó sinh
ra lớn lên nhờ xúc siểm
Nhả
nọc hận thù, phờ phỉnh
công phu
Khéo
léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù
Lạy
lục Tầu Nga không nề điếm
nhục
Đủ
hơi sức nó hiện hình phản
phúc
Ngóc đầu,
phì rít, bất nhân
Cắn
cổ lê dân, quăng quật mộ
phần
Phá đạo,
phá đời, uống khô sông suối!
Ôi thằng
Tây mà trước kia người dân không tiếc
máu xương đánh đuổi
Nay họ
xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ
vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn
tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!
Lòng ái
quốc bị lừa còn đương nằm buồn bã
Đảng
gian ma mong kiếm chác thêm gì
Bay tha
hồ viện tới Lý, Trần,
Lê
Người dân đã chán chê với cái trò hề
chiến tranh
cách mạng
Cái họ
được là khăn tang và nạng
Cái mất
đi ánh sáng cuộc đời
Đảng
bắt câm, bắt nói, bắt
khóc, bắt cười
Bắt
đói, bắt làm, hé răng oán thán
Là tù
ngục mục xương độc
đoán
Phải
chăng đó giá công lao huyết hãn
Mấy
ngàn ngày đánh Pháp những năm xưa?
Biết
là bao ô uế, lọc lừa
Người dân đã có thừa kinh nghiệm
Bùa
phép yêu ma không còn linh nghiệm
Bạo
lực đen ngòm trắng nhởn
nhe nanh
Trại
lính, trại tù xây lũy thép vây quanh
Song bạo
lực cũng đành bất lực
Trước sự chán chường tột
bực của nhân tâm!
Có những
con người giả đui điếc thầm
câm
Song rất
thính và nhìn xa rất tốt
Đã thấy
rõ ngày đồng lầy mai một
Con rắn
hồng dù lột xác cũng không
Thoát
khỏi lưới Trời lồng
lộng mênh mông!
Lẽ
cùng thông huyền bí vô chừng
Giờ
phút lâm chung qủy yêu làm sao ngờ nổi!
Rồi
đây
Khi đất
trời gió nổi
Tàn
hung ơi, bão lửa, trốn
vào đâu? Bám vào đâu?
Lũ
chúng bay dù cho có điên đầu
Lo âu,
phòng bị
Bàn bạc
cùng nhau
Chính
đám sậy lau
Sẽ
thiêu tất lũ bay thành tro xám!
Học
thuyết Mác, một linh hồn
u ám
Không gốc
rễ gì trên mảnh đất
ông cha
Mấy
chục năm phá nước, phá nhà
Đã tới
lúc tông đồ phải lôi ra pháp trường tất cả!
Song bay
vẫn tiệc tùng nhật dạ
Tưởng loài cây to khỏe chặt
đi rồi
Không
gì nghi ngại nữa!
Bay có
hay sậy lau gặp lửa
Còn
bùng to hơn cả đề, đa
Những
con người chỉ có xương da
Sức
bật lật nhào, tung hết!
Hoa cuộc
sống Đảng xéo dày, mong nát chết
Nhưng
mà không, sông núi vẫn lưu
hương
Mỗi
bờ tre, góc phố, vạn
nẻo đường
Hương yêu dấu còn thầm
vương thắm thiết
Nếu
tất cả những tâm hồn
rên siết
Không
cúi đầu cam chịu sống
đau thương
Nếu
chúng ta quyết định một
con đường
Con đường máu, con đường giải
thoát
Dù có
phải xương tan thịt nát
Trong lửa
thiêng trừng phạt bọn
gian ma
Dù chết
chưa trông thấy nở
mùa hoa
Thì
cũng sống cuộc đời
không nhục nhã
Thì
cũng sống cuộc đời
oanh liệt đã!
Nếu
chúng ta đồng tâm tất cả
Lấy
máu đào tươi thắm tưới cho hoa
Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa
Hoa sẽ
nở muôn nhà muôn vạn đóa
Hoa hạnh
phúc tự do vô giá,
Máu căm
hờn phun đẫm mới
đâm bông!
Đất
nước sa vào trong một hầm
chông
Không
phải một ngày thoát ra được đó
Con
thuyền ra khơi phải
chờ lộng gió
Phá
xích, phá xiềng phải sức
búa đao
Còn
chúng ta phải lấy xác làm bè
Lấy
máu trút ra tạo thành sóng nước
Mới
mong nổi lên vùng lầy tàn ngược
Nắm
lấy cây sào cứu nạn
trên cao
Tiếp
súng, tiếp gươm bè bạn viện
vào
Phá
núi, vén mây, đón chào bão lộng
Mới
có thể tiến vào hang động
Tiêu diệt
yêu ma, thu lại đất trời
Thu lại
màu xanh, ánh sáng, cuộc đời.
Chuyện
lâu dài, sự sống ngắn,
chao ơi!
Nỗi
chờ mong thắm thiết
mãi trong tôi.
Tôi
mong mãi một tiếng gì như
biển ầm vang dội
Một
tiếng gì sôi nổi con tim
Đã bao năm
rồi teo chết nằm
im
Trong
những quan tài hình hài hèn đớn
Âm tiếng
đó dội lan qua các trại tù, trại
tập trung
rùng rợn
Làm suy
nghĩ lũ quân thù trâu lợn
Tái tạo
niềm tin cho tất cả
những ai
Đã gần
như tuyệt vọng ở
ngày mai
Lũ lau
gầy, sậy úa, cỏ tàn phai
Náo nức,
reo hò, trông ngó
Âm tiếng
đó gây thành giông gió
Khắp
đại dương cùng khổ âm u
Chớp
xé trời đen, báo hiệu lũ quân thù
Giờ
hủy thể!
Tôi
mong mãi một tiếng gì như
tiếng ầm vang của bể
Đồng
bào tôi cũng mong như thế
Tôi lắng
nghe
Hình như
tiếng đó đã bắt đầu
Nhưng
tôi hiểu rằng đó là tiếng của
lịch sử dài lâu.
Nên trời
đêm dù thăm thẳm ngòm sâu
Dường như vô giới
hạn ở trên đầu,
Tôi vẫn
nguyện cầu
Vẫn
sống, và tin
Bình
minh tới, bình minh sẽ tới.
Cờ
vô đạo đương ngang trời phấp
phới
Tôi vẫn
mơ chân lý tận xa vời
Tôi lùa
tan ngàn vực tối trên đời
Trong
hào quang dữ dội hiển
linh!
Muôn ầm
ầm chấn động trời
thinh
Báo hiệu
bình minh sét nổ
Ôi, ghê
sợ cả một trời
phẫn nộ
Cả
một trời đau khổ khôn lường
Đã bao
ngày nén xuống thảm thương
Dưới tận đáy đồng lầy
tủi hổ
Sẽ
tràn dâng như sóng gầm thác đổ
Bọn
qủy yêu sẽ tới ngày tận
số
Xác lũ
bay sẽ ngập đường ngập
phố
Máu lũ
bay hoen ố cả nền trời
Kèn tự
do đắc thắng nơi nơi
Khai mạc
bình minh khôi phục cuộc
đời.
Ôi tôi
sống và tôi chờ đợi
Ngày
triệu triệu trái tim bùng nổ
tung trời!
Đêm đồng
lầy lõm bõm sương rơi
Cú rúc,
Trăng buồn
Rười rượi.... (1972)
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.