Tám
( 8 ) tỉ đô la cho sân bay Long Thành : Có nhóm lợi ích ODA?
Trước
khi Quốc hội Việt Nam khóa 13 bắt đầu kỳ họp thứ 6 vào hôm qua 21/10/2013, công
luận cũng đã nêu nhiều ý kiến phản đối một dự án khổng lồ. Đó là dự án xây dựng
sân bay Long Thành với số tiền lên đến 8 tỉ đô la, tạo thêm gánh nợ nần cho người
dân Việt trong lúc kinh tế đang u ám, và nhất là khi các sân bay hiện tại còn
chưa khai thác hết công suất.
Dư
luận đặt dấu hỏi, liệu có bàn tay của các nhóm lợi ích về vốn ODA trong đó hay
không? RFI cũng đã đặt vấn đề này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Thành phố HCM
RFI
: Thân chào anh Phạm Chí Dũng, rất cảm ơn anh đã nhận trả lời phỏng vấn. Anh có
nhận xét gì về dự án sân bay Long Thành, mà vốn đầu tư nếu quy theo tỉ giá ngày
hôm nay lên đến trên 168 ngàn tỉ đồng Việt Nam ?
Không
thể nói khác hơn là dự án sân bay Long Thành của Tổng công ty Cảng Hàng không
Việt Nam
lại một lần nữa gây bức xúc lớn trong dư luận trong những ngày gần đây. Đặc biệt
là khi kỳ họp thứ 6 khóa 13 của Quốc hội bắt đầu.
Tổng
công ty Cảng Hàng không Việt Nam
đã trình ra một dự án có thể nói với một số vốn có thể nói là kinh hoàng: 8 tỉ
đô la, chiếm đến 6% GDP toàn quốc để làm sân bay Long Thành! Trong thuyết minh,
Tổng công ty này cho là sẽ xây dựng một thành phố sân bay với 70.000 dân, tạo
công ăn việc làm cho 40.000 người. Tuy nhiên có rất nhiều ý kiến phản bác.
Ngay
những ngày gần đây, cử tri ở một số nơi, chẳng hạn như cử tri ở Thành phố Hồ
Chí Minh đã kiến nghị với đoàn đại biểu Quốc hội cần xem xét lại dự án sân bay
Long Thành. Với một số vốn kinh khủng như thế thì có cần thiết, trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam
đang suy thoái trầm trọng như thế này hay không? Đồng thời họ so sánh luôn cả với
việc sân bay Tân Sơn Nhất vẫn chưa khai thác được hết công suất, thì làm sao có
thể xây dựng những sân bay khác ?
Một
trong những lý lẽ phản bác sâu sắc nhất, theo tôi là của Phó giáo sư tiến sĩ
Nguyễn Thiện Tống. Ông giảng dạy ở trường đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh, và là người trước đây từng có nhiều ý kiến phản biện về các vấn đề chính
trị kinh tế và xã hội. Ông Nguyễn Thiện Tống đã phải dùng cụm từ “một sự tin tưởng
mù quáng” để nói về những dư luận đã được thuyết phục bởi những số liệu của Cục
Hàng không và Tổng công ty Cảng Hàng không đưa ra.
Theo
đó, sân bay Tân Sơn Nhất chỉ có thể đón tối đa 25 triệu khách một năm, không
tăng lên được nữa. Do sự quá tải đó, tới năm 2020 cần phải dời ra một địa điểm
khác là sân bay Long Thành để có thể đón khách quốc tế được nhiều hơn.
Nhưng
ông Nguyễn Thiện Tống cho rằng luận cứ của Cục Hàng không và Tổng công ty Cảng
Hàng không hoàn toàn không đúng. Ông đơn cử, chẳng hạn sân bay Changi của Singapore có diện
tích 1.300 hecta, lớn gấp rưỡi sân bay Tân Sơn Nhất hiện nay (800 hecta), có
công suất lên đến 50 triệu khách. Như vậy với 800 hecta của Tân Sơn Nhất, bằng
2/3 Changi, thì lượng khách có thể tăng lên 35 triệu khách một năm rồi. Mà đó
chỉ là một so sánh tương đối về diện tích mà thôi.
Ông
Nguyễn Thiện Tống cũng đưa ra những cứ liệu đánh giá khá chuẩn xác, đầy đủ và
công bằng, so sánh giữa Niên giám thống kê của Cục Thống kê Thành phố, với cứ
liệu của Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam, cho thấy hai con số khác xa
nhau. Theo Cục Thống kê, từ năm 2005 đến 2012, tỉ lệ số chuyến bay quốc tế giảm
từ 56,5% xuống còn 35,5%. Bên dự án sân bay Long Thành đã dự báo 90% tổng lượng
khách là khách quốc tế, chỉ có 10% là nội địa. Trong khi đó, ở Tân Sơn Nhất thì
ngược lại: tới 90% là nội địa, chỉ có 10% là khách quốc tế. Ông Nguyễn Thiện Tống
cho rằng khả năng sân bay Long Thành không có khách là điều chắc chắn.
Sự
khác biệt giữa hai kết quả tính toán là rất lớn. Như vậy người ta đã cố tình
phóng đại số liệu này để xây sân bay Long Thành. Và ông cũng nghi ngờ là nếu cố
làm phác ra cho nhiều lên để dự báo nhu cầu tương lai nhiều là điều rất nguy hiểm.
Cũng
có một yếu tố khác: nếu so sánh với sân bay các nước trong khu vực, thì nhận định
về tăng trưởng đối với hàng không Việt Nam càng rõ ràng hơn. Chẳng hạn như
số liệu tỉ lệ tăng trưởng chung ở các sân bay của Singapore, Malaysia, Bangkok
cũng thấy tỉ lệ bình quân thấp, và thấp hơn nhiều so với tỉ lệ gia tăng mà Cục
Hàng không Việt Nam tính toán cho 10 đến 20 năm tới.
Đó
cũng là một lý do mà những người phản biện như PGS Nguyễn Thiện Tống cho rằng
khi dự báo về sản lượng hàng không ở sân bay Tân Sơn Nhất thì cần phải được kiểm
chứng một cách độc lập. Điều này là cần thiết nhằm tránh lãng phí lớn khi xây dựng
sân bay ở Long Thành. Vì với những số liệu luận chứng kinh tế kỹ thuật như vậy
mà cứ cố tình đầu tư vào thì khả năng lỗ rất cao và hoàn vốn chậm.
Tôi
cũng thấy là vấn đề kiểm chứng độc lập rất cần thiết, vì thực ra ở Việt Nam hiện nay chưa
có những tổ chức giám kiểm độc lập đối với những lãnh vực được coi là nhạy cảm
như ODA. Mà ODA thì trong một thời gian dài vừa qua đã có sự thất thoát rất lớn,
kể cả những dấu hiệu tham nhũng trong đó nữa, mà chưa được một tổ chức kiểm chứng
độc lập nào trong nước thực hiện. Những tổ chức phi chính phủ Việt Nam lại chưa
chính thức được cho phép thành lập, trong khi đó những tổ chức phi chính phủ nước
ngoài vốn có truyền thống kiểm định những dự án lớn như thế này lại chưa hoạt động
ở Việt Nam, và cũng chưa được được một cơ quan nhà nước Việt Nam nào mời.
Điều
đó cho thấy rõ ràng trong tương lai muốn đánh giá những dự án như sân bay Long
Thành cần có một tổ chức kiểm chứng độc lập. Dư luận cũng đã đưa ra một số phân
tích nữa về tình hình cung cầu đối với hàng không Việt Nam .
Ở
Việt Nam hiện nay có 21 cảng hàng không, trong đó có những sân bay quốc tế như
Cần Thơ, Cam Ranh, Phú Quốc, Liên Khương vẫn chưa hoạt động hết công suất. Do vậy
dư luận đề nghị nên tận dụng các sân bay hiện có thay vì làm thêm những sân bay
quốc tế. Nên mở rộng sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất thay vì xây mới một số
sân bay như Long Thành.
RFI:
Anh có thể nêu một số ví dụ về lãng phí vốn ODA?
Vấn
đề lãng phí vốn ODA đã được nêu ra từ rất lâu, và có nhiều ví dụ để dẫn chứng.
Tiêu biểu nhất là vụ PMU18 vào năm 2006, qua đó trưởng ban PMU18 là Bùi Tiến
Dũng thuộc Bộ Giao thông Vận tải, một kẻ đã tắm bằng bia trong quan hệ với gái.
Ăn chơi sa đọa đến mức như vậy mà vẫn mang danh nghĩa là đảng viên, quan chức
trung cấp của nhà nước, đủ thấy là đã xài tiền ODA như thế nào. Đó là một vụ lớn,
nhờ báo chí phát hiện ra nên không thể ém nhẹm, sau đó đã phải đưa Bùi Tiến
Dũng cùng một số đồng phạm ra xử.
Năm
2011, cũng lại là Bộ Giao thông đã đưa ra phương án xây dựng đường sắt cao tốc
Bắc-Nam có tốc độ 300-400 km/giờ với kinh phí lên đến 55 tỉ đô la! Tức là chiếm
một nửa GDP của toàn quốc vào thời điểm đó.
Có
thể nói đây là một dự án khủng khiếp mà không hiểu sao các bộ, ngành, đặc biệt
là Bộ Giao thông, lại gần như nhắm mắt chấp thuận đề nghị do bên Đường sắt đưa
ra, và trình lên chính phủ. Nhưng sau đó dư luận đấu tranh rất quyết liệt, và
cuối cùng rất may mắn là năm 2013 dự án đường sắt cao tốc đã bị hủy. Chỉ có điều
hủy dự án 55 tỉ đô la nhưng người ta vẫn thực hiện một phần, tức vẫn làm nhưng
với quy mô nhỏ hơn.
Ngoài
ra cần phải nói thêm về trách nhiệm của Bộ Giao thông Vận tải. Việc bộ này đưa
ra những dự án rất lớn, ngốn rất nhiều tiền – tiền từ ngân sách, tiền đi vay mượn
của nước ngoài – trong những năm mà nền kinh tế gần như suy thoái toàn diện.
Vào tháng 4/2012 trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã bước vào năm suy thoái
thứ tư, Bộ Giao thông Vận tải còn đưa ra dự án dùng 10.000 tỉ đồng từ ngân sách
để xây dựng trụ sở mới. Ngay lập tức dư luận đã phản ứng rất dữ, cho là một đề
xuất kỳ quái, hoàn toàn vô trách nhiệm đối với nhân dân.
Còn những năm trước, liên quan đến vấn đề ODA, báo chí Nhật Bản – chứ không phải báo chí Việt Nam đã phát hiện công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương của Nhật đã phải hối lộ cho quan chức Việt Nam phụ trách dự án đại lộ Đông-Tây ở Thành phố HCM một phần hoa hồng tương đương 10% giá trị hợp đồng. Lúc đó cũng là một trưởng ban của PMU Đông-Tây là Bùi Ngọc Sĩ, theo tôi nhớ thì số tiền hối lộ cho ông ta là trên 800.000 đô la. Sau đó ông Sĩ đã phải nhận mức án tù cao.
Cũng
có những minh họa khác về vấn đề lãng phí và tham nhũng trong ODA. Gần đây nhất,
năm 2012 là Đan Mạch ngay trước thềm hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ giữa
kỳ năm 2012, chính Bộ Ngoại giao Đan Mạch đã không ngần ngại tuyên bố ngừng ¾ dự
án ODA tài trợ cho Việt Nam do nghi ngờ một số cơ quan đơn vị sử dụng chi sai
khoảng 11,4 tỉ đồng trên tổng số tiền 69 tỉ đồng do Đan Mạch tài trợ, tức là tương
đương khoảng 19,9 triệu cua-ron.
Thậm
chí còn có những tỉ lệ tham nhũng, thất thoát cụ thể đối với ODA ở Việt Nam . Chẳng hạn
trong một lần hiếm hoi tôi đọc thấy trên báo điện tử Vietnamnet đã nêu ra một
minh họa cụ thể: từ năm 2009-2010, sau khi đại sứ quán Nhật tại Việt Nam loan
báo sẽ viện trợ không hoàn lại để một số tỉnh xây trường học, đường sá hạ tầng…
thì có một phụ nữ mà tờ báo không dám nêu tên, chỉ cho biết là cư ngụ tại thành
phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Phụ nữ này đã liên lạc với lãnh đạo nhiều xã ở Hà Tĩnh
để đặt vấn đề chạy dự án, với điều kiện khi thành công phải cắt cho bà ta 40%.
Sau
đó nguồn vốn ODA đã được rót về cho ba xã ở Hà Tĩnh, trong đó có một xã tên là
Gia Phố được nhận 80.000 đô la để xây dựng trường tiểu học. Chính quyền xã này
đã lấy 8.000 đô la chia cho nhau, rồi lấy thêm 24.000 đô la chi cho người phụ nữ
làm môi giới. Tỉ lệ 40% tương tự cũng xảy ra ở huyện Cẩm Xuyên. Và do bị ăn chặn,
các cơ sở giáo dục, đường sá ở ba xã trên đều phải giảm quy mô và chất lượng.
Từ
những hiện tượng tham nhũng, thất thoát ODA trong suốt những năm vừa qua, cho
thấy ở Việt Nam đã hình thành những nhóm lợi ích ODA, là nhóm lợi ích căn cứ
vào hoạt động độc quyền và đặc thù của chính sách, câu kết với những nhóm thân
hữu kể cả với các chính khách để móc ráp, có được những hợp đồng đặc quyền về
ODA và phân bổ cho các địa phương, nhận hoa hồng.
Trong
15 năm vừa qua, Việt Nam đã nhận đến 30 tỉ đô la từ nguồn vốn ODA để thực hiện
hàng ngàn dự án phát triển cơ sở hạ tầng như sân bay, cảng biển, hệ thống điện,
kể cả xóa đói giảm nghèo, cải thiện môi trường, môi sinh. Nhưng nên hiểu một điều
thế này, không phải ODA tất cả đều cho không, mà một phần rất nhỏ là viện trợ
không hoàn lại, chỉ chiếm 3-5% mà thôi. Còn lại chủ yếu là tiền cho vay với lãi
suất thực ra không hoàn toàn ưu đãi.
Do
vậy nguy cơ tham nhũng trong việc sử dụng nguồn vốn này ngày một tăng, mức độ
tham nhũng ngày càng nghiêm trọng. Trong khi đó các giải pháp phòng chống tham
nhũng lãng phí tuy vẫn được nhà nước nhắc đến là phải thực hiện một cách quyết
liệt nhưng mà thực ra không có gì quyết liệt cả. Đa số các vụ phát hiện về ODA
đều do người dân và báo chí, hoàn toàn không phải do nhà nước phát hiện.
Mà
thực ra vấn đề sân bay Long Thành hay những dự án sân bay khác chỉ là một phần.
Cách đây vài năm người ta đã nói có một trào lưu xây dựng cảng biển ồ ạt ở Việt
Nam ,
cũng với nguồn vốn ODA. Có những chuyên gia phản biện độc lập đã nêu ra rằng những
dự án cảng biển cũng dự kiến trong luận chứng kinh tế kỹ thuật là có lượng tàu
và hàng hóa lớn. Nhưng hiện nay các cảng biển đó vẫn bỏ trống.
Một
ví dụ nữa, chẳng hạn giáo sư Tô Văn Trường, một người có kinh nghiệm trong giao
thông vận tải và thủy lợi, đã nêu ra một số kinh nghiệm thực hiện dự án ODA
liên quan đến một số quan chức. Chẳng hạn dự án cảng Lạch Huyện ở Hải Phòng đã
cho thấy rõ là có vai trò của một số tổ chức, và sự thúc ép của một số quan chức
nhà nước đối với các nhà khoa học. Ngay cả khi báo cáo của dự án Lạch Huyện còn
đến khoảng 20 điểm chất vấn của Hội đồng khoa học liên quan đến phương pháp luận,
các vấn đề về kỹ thuật tính toán, các tác động xấu về môi trường… chưa được giải
trình rõ ràng, nhưng giới quan chức vẫn vận động cơ quan chức năng cho mở một số
gói thầu, coi như việc đã rồi.
Giáo
sư Tô Văn Trường cũng đưa ra một số ví dụ nữa khá sắc nét. Chẳng hạn dự án điện
của TKV ở Cẩm Phả, hay dự án cao tốc Bến Lức, Long An dài có 58 km thôi nhưng
đã đội giá từ 1,6 tỉ lên 2,2 tỉ đô la. Hoặc dự án métro Hà Nội chỉ dài có 12
km, mà giá tới trên 900 triệu đô la, tức khoảng 75 triệu đô la một km chiều
dài. Métro ở Thành phố Hồ Chí Minh giá cũng tương tự, và giá nhà ga T2 ở Nội
Bài cũng đến 900 triệu đô la.
Ông
đặt câu hỏi: Chính phủ, đặc biệt là Bộ Giao thông Vận tải, làm sao có thể giải
thích cho người dân hiểu vì lý do gì mà dự án giao thông ở Việt Nam có suất đầu
tư quá cao so với những nước giàu có như Mỹ và Hàn Quốc?
Cho
đến năm 2020, lúc đó theo quy hoạch cảng hàng không thì Việt Nam sẽ có 26 cảng
được đưa vào khai thác so với 21 cảng hiện nay, tức là có thêm 5 cảng hàng
không nữa. Có nghĩa là cũng thể sẽ có 5 dự án nữa cũng khủng khiếp như sân bay
Long Thành, và sẽ lại xuất hiện nhiều tiêu cực. Lúc đó trách nhiệm sẽ thuộc về
ai? Rất nhiều cử tri, người dân cho đó là một cách để đẩy nợ cho tương lai, và
đổ nợ lên đầu con cháu.
RFI:
Xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã vui lòng tham gia chương trình
hôm nay của chúng tôi.
Thụy
My
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.