Tượng
Nhạc Phi trong Nhạc miếu.
1.
Các nhà lãnh đạo TC có thể “ngu xuẩn” hay không?
Ngày
12-5-2014, Giáo sư tiến sĩ Jame Holmes, chuyên gia nghiên cứu cao cấp tại Học
viện Quân sự Hải Quân Mỹ, có đăng trên tờ The Diplomat về việc Trung Cộng đặt
giàn khoan Hải Dương-981 trên thềm lục địa Việt Nam, trong đó ông nói một câu
rất đáng chú ý như sau: “Sự ngu xuẩn và tự tìm lấy thất bại là một phần trong
các chiến lược của Trung Cộng”.Lãnh đạo một đất nước hùng mạnh hơn một tỉ dân,
đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ mà thôi thì có thể “ngu xuẩn” như lời GS
Jame Holmes nói hay không? Không ai chứng minh được điều đó. Nhưng chẳng lẽ GS
Jame Holmes lại nói sai? GS là một chuyên viên cao cấp giảng dạy trong Học viện
Quân sự Hải Quân Mỹ chứ đâu phải vừa. Về phần Đ.Dự, tôi không nói các nhà lãnh
đạo TC là “ngu” nhưng qua các sách vở, tài liệu lịch sử TC, tôi thấy có những
chuyện như thế này:
Dr.
James Holmes
- Chuyện thứ nhất: Vào khoảng những
năm từ 1958 đến 1961, nhà “đại lãnh đạo” TC Mao Tse Tung, tiếng Việt kêu là Mao
Trạch Đông: “Đông phương hồng! Mặt trời lên! Trung Hoa chúng ta có bác Mao Xì
Tung, với muôn dân người là cứu tinh! Tính tang tình, dân ấm no người mưu hoà
bình!… “. Ấm no cái con khỉ khô! Hồi đó dân chúng Trung Cộng đói muốn chết,
thậm chí nhà văn Mạc Ngôn – tác giả Cao Lương Đỏ, Đèn Lồng Treo Cao, Báu Vật
Của Đời..vv..(sau này đoạt giải Nobel văn học năm 2012) nói rằng nhiều người
đói quá phải ăn cả lá dâu, nhiều gia đình nghèo quá, cả nhà chỉ có chung một
chiếc quần, ai đi đâu thì mới mặc, còn hàng ngày cả gia đình ai cũng chỉ quấn
bao bố; nhiều nơi dân chúng chết đói. Bác Mao chợt nghĩ ra rằng, đa số các loài
chim đều ăn sâu bọ hoặc cá mú, sò ốc, riêng chim sẻ thì sống gần người và ăn
hạt, tức ăn lúa gạo. Nhà đại lãnh đạo Đông phương hồng tính ra, mỗi năm khắp
nước TC có hàng triệu, hàng triệu con chim sẻ, vậy thì chúng ăn hết hàng ngàn
tấn lúa gạo, trong khi đó dân chúng đói rách, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc.
Vậy là ngài bèn họp Bộ Chính trị Trung ương rồi tung ra đại chiến dịch … diệt
chim sẻ (Đả mã tước đại chiến dịch), ra lệnh cho dân chúng tiêu diệt chim sẻ,
phá tổ chim, đập vỡ trứng. Ai diệt được nhiều chim sẻ người đó được phong danh
hiệu anh hùng. Dân chúng ai có lưới dùng lưới, ai có súng dùng súng, ai không
có lưới hay súng thì dùng cung tên. Ngài còn hạ lệnh cho quân đội đem cả súng
đại bác ra mà bắn chim sẻ. Súng đại bác thì bắn chim sẻ làm sao được? Các vị
chỉ huy quân đội lấy làm thắc mắc lắm, nhưng lệnh là lệnh, lệnh đã ban ra thì
phải tuân theo. Kết quả là chim sẻ chết rất nhiều. Các nhà khoa học trong Hàn
lâm viện Khoa học Hoa Kỳ gửi văn bản cho Mao Trạch Đông, khuyến cáo rằng theo
nghiên cứu của Hàn lâm viện, chim sẻ ăn sâu bọ, côn trùng, nhất là ăn cào cào
châu chấu nhiều hơn ăn thóc gạo, nếu tận diệt chim sẻ sẽ làm mất sự cân bằng
sinh thái trong thiên nhiên, sẽ rất nguy hiểm. Mặc, bọn “đế quốc Mỹ” muốn nói
gì thì nói, đường ta ta cứ đi, Mao xếnh xáng không thèm nghe. Quả nhiên, đả mã
tước đại chiến dịch chỉ mới phát động được chưa đầy 3 năm – từ 1958 đến 1961 –
thì sau đó, năm 1962, cả nước TC bị nạn cào cào châu chấu (kêu là hoàng trùng
đại nạn) phá hoại mùa màng không sao cứu vãn nổi do đã tiêu diệt chim sẻ, dân
chúng chết đói tới hơn 30 triệu người. Bác Mao tuyên bố: “Chiến dịch rất thành
công nhưng thôi, không nói tới nữa”.
Thế
đấy, cổ nhân có câu: “Bậc thượng trí thì người ta chưa nói đã hiểu. Bậc trung
trí, người ta vừa mới nói đã hiểu. Còn hạng hạ trí, người ta nói như chòi vào
lỗ tai thì cũng chẳng hiểu”. Nhà đại lãnh đạo Trung Cộng Mao Trạch Đông nghe
các nhà khoa học Hoa Kỳ nói nhưng không hiểu, làm chết tới 30 triệu dân, vậy
ông ta thuộc hạng hạ trí, nói nôm na ra là… đồ ngu xuẩn. Tôi nghĩ rằng thầy nào
tớ nấy, các nhà lãnh đạo TC hiện nay cũng ngu xuẩn như thầy của họ là Mao Trạch
Đông.
– Chuyện thứ hai: Về đời nhà Tần
bên Tàu (từ 221 đến 206 trước Tây lịch), sau khi Tần Thuỷ Hoàng gồm thâu lục
quốc, dựng nên nhà Tần rồi lên làm hoàng đế. 9 năm sau, ông ta đi kinh lý và chết
đột ngột trên đường về, đứa con thứ hai tên là Hồ Hợi, lúc ấy mới 20 tuổi, toa
rập với thừa tướng Lý Tư và bí thư lang Triệu Cao (người giữ ấn tín, giấy tờ
cho Tần Thuỷ Hoàng), lập mưu làm giả chiếu chỉ của Tần Thuỷ Hoàng, ra lệnh cho
anh ruột là Thái tử Phù Tô phải tự tử chết, nếu không vợ con sẽ bị giết hết,
rồi Hồ Hợi lên làm vua, đó là Tần Nhị Thế.
Tần
Nhị Thế tuy còn trẻ tuổi nhưng cũng độc tài, khát máu và ngu dốt như nhà “đại
lãnh đạo” miệng còn hôi sữa Kim Jong Un nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên bây giờ. Triệu Cao xúi giết Lý Tư (để Cao lên thay làm thừa tướng), Nhị
Thế cũng giết. Sau khi đã lên làm thừa tướng rồi, Triệu Cao xúi giết hết các
anh em ruột thịt đi kẻo họ cướp ngôi, Nhị Thế cũng giết. Triều đình xanh mặt,
ai cũng lo sợ rằng với nhà “đại lãnh đạo” ngu xuẩn như thế, cái đầu của mình
không biết lúc nào sẽ rời khỏi cổ.
Một
lần, Tần Nhị Thế được thừa tướng Triệu Cao phò đi coi Vạn lý trường thành. Nhị
Thế rất lấy làm đắc ý vì thấy bức trường thành oai hùng quá, vĩ đại quá, thật
là một công trình ngàn năm có một. Về, Tần Nhị Thế bèn ra lệnh… sơn Vạn lý
trường thành cho đẹp! Các quan đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói một tiếng
nào cả. Lúc ấy các đạo quân nổi dậy của Lưu Bang, Hạng Võ đã tiến gần tới kinh
đô Hàm Dương, khắp nơi loạn lạc, Nhị Thế u mê không biết gì hết, ra lệnh sơn Vạn
lý trường thành chỉ càng làm cho dân chúng khốn khổ. Anh chàng kép hát tên Ưu
Chiên – một “nghệ sĩ hài” trong cung đình, lúc nào cũng được đi theo Nhị Thế để
giúp vui – thấy các “Ủy viên Trung ương đảng” trong triều đình nhát quá, nên
bèn quỳ tâu: “Khởi tấu đấng chí tôn, sơn Vạn lý trường thành thì đẹp lắm, dễ
lắm nhưng … không lấy cái gì đủ lớn để trùm lên, che trường thành cho sơn khô
được, mà không che thì sẽ bị bụi và mưa gió!”. Sơn thời đó chưa “tiến bộ” như
bây giờ nên rất lâu khô. Tần Nhị Thế nghe lời, bèn bãi bỏ lệnh bắt dân chúng
sơn Vạn lý trường thành, các quan thở phào nhẹ nhõm. Xem ra, cả triều đình còn
thua một anh kép hát!
Hồ
Hợi làm vua được 3 năm (từ 210 đến 207 trước Tây lịch) thì bị Triệu Cao giết,
đưa người cháu gọi Hồ Hợi bằng chú là Tử Anh lên ngôi. Tử Anh lập mưu giết
Triệu Cao trước khi các cánh quân của Hạng Võ và Lưu Bang tiến vào Hàm Dương.
Tử Anh đầu hàng nhưng bị Hạng Võ giết đồng thời đốt cháy cung A Phòng 3 tháng
lửa mới tắt. Bạo Tần hoàn toàn sụp đổ. Nhà Tần tính từ Tần Thuỷ Hoàng tới Tử
Anh, làm hoàng đế được 15 năm (từ 221 đến 206 trước Tây lịch).
Các
chế độ độc tài thì đều như thế cả, rất mau sụp đổ.
2.
Các “nhà lãnh đạo” có thể bán nước hay không?
Tôi
xin thưa rằng có đấy quý bạn ạ. Bạn đừng nghĩ đã làm lớn như thượng thư, tể
tướng chẳng hạn, vinh hoa phú quý tuyệt đỉnh thì người ta không bán nước. Sự
thật không phải như thế, những kẻ tham lam không bao giờ bằng lòng với địa vị
của mình. Được một chúng muốn mười, được mười chúng muốn một trăm, chẳng bao
giờ thoả mãn. Ngoài ra, những kẻ càng làm lớn bao nhiêu thì đối phương càng
muốn mua chuộc bấy nhiêu, một ông tể tướng bán nước sẽ có ích lợi cho chúng gấp
nhiều lần so với những ông “quan” cấp nhỏ. Sau đây xin mời quý bạn xem xét câu
chuyện bán nước có một không hai trên đời của Tần Cối, một vị tể tướng “đại
gian tế” thuộc đời nhà Tống bên Tàu. – Tại sao Đ.Dự tôi cứ thích nói chuyện bên
Tàu? Không phải tôi “thích” đâu mà là tại tôi lớn tuổi rồi, hay bị bệnh “rét”.
Thời cuộc đảo điên “thế chiến quốc, thế xuân thu, thời thế thế, thế thời phải
thế” , tôi ngại “ủ tờ” lắm – nói lái theo kiểu Bắc kêu là “tủ ờ” – cứ đem ba
cái chuyện bên Tàu từ đời nảo đời nào ra mà luận cổ suy kim thì chắc ăn hơn cả.
Đây, xin mời quý bạn coi qua cho biết…
TIỂU
SỬ ĐẠI “TỐNG GIAN” TẦN CỐI
Tần
Cối sinh năm 1090 tại Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung
Cộng), ngay từ thuở nhỏ đã thông minh tuyệt đỉnh, năm 25 tuổi thi đậu tiến sĩ
đệ nhất đẳng tức Trạng nguyên, xuất thân gia đình quan lại, cha từng làm tới
chức thất phẩm huyện lệnh.
Năm
Tĩnh Khang thứ nhất, tức tháng 11 năm 1126, quân Kim từ phía bắc đánh xuống tới
Biện Kinh là kinh đô của nhà Tống. Thái thượng hoàng Tống Huy Tông Triệu Cát và
con là Hoàng đế Tống Khâm Tông Triệu Hoàn cùng các cung phi, hoàng hậu, phò mã,
công chúa, các quan và mọi người khác trong tôn thất đều bị bắt làm tù binh,
rồi bị quân Kim áp giải về Kim quốc của chúng ở phía bắc, trong số các quan bị
bắt đó có Tần Cối.
Ở
trong ngục, Tần Cối được Huy Tông uỷ thác việc viết thư cầu hòa với Hoàng đế
Kim (kêu là Trung Hiến vương Niêm Hãn). Nước Kim tức bộ tộc Nữ Chân ngày trước,
từ xưa đến nay chưa từng có chữ viết, phải mượn chữ viết của nước Liêu tức bộ
tộc Khiết Đan cũng ở phía bắc ngay sát phía dưới mà dùng. Tần Cối đã đậu trạng
nguyên, thông minh từ nhỏ nên biết nhiều thứ tiếng, viết thư bằng tiếng nước
Liêu với lời lẽ cực kỳ khúm núm. Vua Kim rất mừng vì có người biết tiếng Liêu,
bèn thưởng cho Tần Cối một vạn quan tiền, một vạn tấm lụa, rồi đem Tần Cối tặng
cho người em trai của mình là Hoàn Nhan Thát Lại, và bảo Thát Lại:”Ta đã nghĩ
đến việc này từ ba năm nay rồi. Muốn chiếm được toàn bộ Trung nguyên thì phải
có người làm nội ứng. Ngươi hãy đối xử với người này thật tử tế, coi như ruột
thịt để hắn trở thành người của ta, sau này sẽ có việc dùng”.
Năm
1130, tức 4 năm sau kể từ ngày bị bắt, Tần Cối được lệnh của Hoàn Nhan Thát
Lại, giả làm kẻ đào thoát, trở về Trung nguyên, vượt sông Hoàng Hà, xuống miền
Nam nước Tống, nhưng thực chất đó là gian tế của nước Kim.
Lại
kể chuyện về miền Nam .
Sau khi Thái thượng hoàng HuyTông và hoàng đế Khâm Tông bị giặc bắt, một vị
hoàng tử tên là Triệu Cấu, con của Huy Tông, em ruột Khâm Tông, lúc ấy đang đi
xem xét quân tình ở miền Nam nên thoát nạn, bèn lập triều đình và lên làm vua,
đó là vua Cao Tông, và nhà Tống lúc này chỉ còn lại một nứa phía nam nên gọi là
nhà Nam Tống.
Tần
Cối “đào thoát” trở về, tể tướng Nam Tống là Phạm Tông Doãn và Khu mật viện Lý
Hồi cùng các vị quan khác mừng lắm, bèn tâu với Cao Tông, bảo đảm về lòng trung
thành của Tần Cối. Mặt khác, Cao Tông thấy Tần Cối bị bắt cùng với cha và anh
mình, bây giờ trốn về được, điều đó chứng tỏ khí tiết của vị trạng nguyên này
nên rất tin dùng, lập tức phong cho Tần Cối làm thượng thư bộ Lễ.
Càng
ngày càng được Cao Tông sủng ái, dần dần Tần Cối dồn ép người đã từng tiến cử
mình là tể tướng Phạm Tông Doãn phải cáo lão, “về hưu non” để mình thay chức.
Sau khi nắm được quyền bính trong tay, Tần Cối bắt đầu tính đến chuyện cầu hòa,
chính thức dâng một nửa giang sơn phía Bắc cho quân Kim, nộp tiến cống, đồng
thời bắt đầu tiêu diệt những kẻ chủ chiến. Bởi vậy dân chúng trong thành Lâm An
miền Nam
nghi ngờ và có lời đồn đại:“Tể tướng Tần Cối là gian tế của giặc”.
MỘT
NGÀY 12 ĐẠO KIM BÀI!
Đã
phải cắt một nửa giang sơn nhưng rợ Kim còn đòi mỗi năm Nam Tống phải tiến cống
25 vạn lạng bạc, 25 vạn tấm lụa và vua Tống phải xưng thần thì mới cho hoà. Tần
Cối xúi Cao Tông chấp nhận song dân chúng rất phẫn uất. Hoà ước đã ký kết và
nhận được tiến cống, Kim đế cho phép đem quan tài Huy Tông, Hoàng thái hậu cùng
những người đã chết về.
Sau
lần nghị hòa này, nhiều đại thần trong triều phản đối. Quan Đông các đại học sĩ
Hồ Thuyên – một người rất có danh tiếng – dâng biểu xin xử trảm Tần Cối và đồng
bọn như Vương Luân, Tôn Cận để tạ tội với thiên hạ. Biểu chương đã làm chấn
động triều đình nhưng Cao Tông không nghe theo. Tần Cối vẫn giữ vững địa vị tể
tướng và đầy Hồ Thuyên cùng nhiều người khác đi biệt xứ .
Năm
Thiệu Hưng thứ 10, người Kim bội ước, tấn công xuống chiếm các tỉnh Hà Nam , Thiểm
Tây..vv.. Quân đội Nam Tống dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Nhạc Phi cùng
những vị đại tướng tài ba khác như Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Trương Tuấn,
Lưu Kỳ… đem quân chống lại và thắng lớn, chẳng những chiếm lại các tỉnh mới bị
giặc xâm lấn như Hà Nam, Thiểm Tây, Yến Thành..vv.. mà còn đánh lên miền Bắc,
tiến sát tới tận cố đô Khai Phong. Tin vui thắng trận báo về, Cao Tông mừng rỡ,
thăng nguyên soái Nhạc Phi lên đại nguyên soái và ra lệnh cho các tướng Hàn Thế
Trung, Dương Kỳ Trung, Trương Tuấn, Lưu Kỳ…hợp quân với đại nguyên soái Nhạc
Phi, hẹn ngày chiếm lại kinh đô Biện Lương, lấy lại miền Bắc rồi sẽ đánh thẳng
lên Kim quốc .
Về
phần chủ soái của phía quân địch là Ngột Truật, thấy quân mình thiệt hại nặng
nề, đã định bỏ miền bắc Trung Cộng, lui về để giữ Kim quốc nhưng sau đó “cầu
may” bằng cách bí mật ra lệnh cho Tần Cối: “Ngươi ngày đêm giữ việc hòa hoãn
song Nhạc Phi và các tướng của y không nghe theo, quyết chiến, đánh lên Hà Bắc,
giết hại con rể của ta, lại còn định chiếm Biện kinh và tiến tới tận thiên
triều nữa. Ngươi phải tìm cách giết Nhạc Phi và lui quân các tướng, nếu không
ta sẽ công khai những chuyện ngươi đã liên lạc với thiên triều từ trước tới
nay”.
Tần
Cối rất lo sợ, bèn dùng kế “rút củi đáy nồi” bằng cách ra lệnh cho các tướng
Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Lưu Kỳ ..vv.. lui quân về giữ Nam Tống kẻo … bị
Ngột Truật đánh úp (?), để mặc cho quân Nhạc Phi đơn độc không thể đánh lên
Biện kinh được. Với miệng lưỡi khéo léo của một bậc trạng nguyên thông minh từ
nhỏ, Tần Cối cũng thuyết phục Cao Tông triệu hồi Nhạc Phi về kinh. Nhạc Phi
đang đà thắng lợi, không về. Trong cùng một ngày, với quyền lực tể tướng của
mình, Tần Cối phát ra 12 đạo kim bài (tức 12 tấm thẻ bài bằng vàng, lệnh của
nhà vua), thúc giục Nhạc Phi trở về. Bắt buộc Nhạc Phi phải về, nếu không toàn
gia tộc tại kinh đô sẽ bị giết.
Khi
đại nguyên soái Nhạc Phi đã về, liền bị Tần Cối tống ngay vào ngục để sẽ xử
tội. Tướng quân Hàn Thế Trung cùng các tướng khác lúc đó cũng đã bị triệu hồi,
chất vấn Tần Cối: “Xử tội đại nguyên soái Nhạc Phi, thế bằng chứng đâu?”. Tần
Cối trả lời: “Không có bằng chứng. Nhưng cũng không cần có”. Ba tiếng “Không
cần có” (Mạc tu hữu) sau này được sử sách chép liền với tên tuổi Nhạc Phi để
chỉ những lời buộc tội ngụy tạo.
Tần
Cối còn đang do dự, giết Nhạc Phi thì bị dân chúng phản đối mà không giết sẽ bị
Ngột Truật công bố chuyện bán nước, người vợ của Tần Cối là Vương Thị nói:
“Tướng công phải hiểu, bắt cọp thì dễ, thả cọp về rừng rất khó bắt lại, giết đi
là xong “. Tần Cối nghe theo, bèn sai người giết Nhạc Phi. Vào một đêm tháng 1
năm 1142, Nhạc Phi và con trai của mình là Nhạc Vân bị hành quyết bằng cách
thắt cổ chết trong ngục.
BỊ
HẬU THẾ COI LÀ KẺ BÁN NƯỚC
Người
Hán sau đó xem Tần Cối là đại gian tế, phục vụ kẻ địch. Cho đến ngày nay, món
bánh “giò cháo quẩy” (Yau ja gwai, Du tạc quỷ, nghĩa là quỷ sứ bị bỏ vạc dầu)
của người Hoa được làm bằng bột chiên trong dầu, luôn luôn làm từng cặp dính
nhau, đó là tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc
dầu hành tội.
Sau
khi Tống Cao Tông mất, Nhạc Phi mới được giải oan, người ta đem hài cốt Nhạc
Phi chôn cất trên đồi bên bờ Tây Hồ tại Hàng Châu, phong cảnh rất đẹp. Về sau
lại dựng Nhạc Miếu ở phía đông ngôi mộ, tượng Nhạc Phi trong bộ nhung giáp ngồi
ở chính giữa, phía trên có một bức hoành phi với bốn chữ “Hoàn ngã sơn hà” (Lấy
lại giang sơn của ta) do chính bút tích của Nhạc Phi. Tượng Tần Cối được đúc
bằng gang, cùng vợ là Vương Thị bị còng tay quỳ trước mộ để người đi qua nhổ
nước bọt vào mặt. Trước mộ Nhạc Phi có hai vế câu đối:
Thanh
sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch
thiết vô cô chú nịnh thần
(Núi
xanh may mắn được làm nơi chôn cất xương cốt bậc trung liệt. Sắt trắng uổng
thay bị đúc làm tượng kẻ nịnh thần)
Một
người họ Tần, sau triều Tống đến thăm mộ Nhạc Phi, làm hai câu đối:
Nhân
tòng Tống hậu hãn danh Cối
Ngã
đáo phần tiền, hối tính Tần.
(Từ
sau đời Tống, ít ai tên là Cối. Ta đến trước mộ, tự thẹn mình mang họ Tần)
Sau
khi Nhạc Phi chết và các tướng giỏi Hàn Thế Trung, Dương Kỳ Trung, Lưu Kỳ,
Trương Tuấn ..vv.. đã bị Tần Cối cách chức, Nam Tống bị Kim đô hộ dưới hình
thức một xứ tự trị, các vua Nam Tống phải gọi vua Kim bằng thúc phụ (chú) và
hàng năm phải tiến cống 10 vạn lạng bạc, 10 vạn tấm lụa. Vì Kim dân ít, không
đủ người cai trị cả nước Trung Cộng nên không trực tiếp chiếm Nam Tống như đã
chiếm Bắc Tống, cứ để như thế thu thuế thì dễ hơn.
Tình
trạng Kim cho Nam Tống “tự trị” như vậy kéo dài 120 năm, rồi cả Kim lẫn Tống
đều suy trong khi Mông Cổ mạnh lên. Thiết Mộc Chân tức Thành Cát Tư Hãn đem
quân đánh chiếm cả Kim lẫn Tống, lập nên nhà Nguyên. Dân chúng Trung Cộng lại
bị làm nô lệ cho “chủ mới”.
3.
Kết luận của “Những chuyện bên lề”.
Thưa
quý bạn, ngày 1-5-2014, Trung Cộng đưa giàn khoan Hải Dương- 981 đến hạ đặt tại
thềm lục địa Việt Nam. Các nhà khoa học Việt Nam cho biết, vùng này không có
dầu hoặc có rất ít không đáng kể, Trung Cộng cũng biết như thế nhưng đây là một
“cục gạch” do chúng đặt “bước đầu” trên thềm lục địa Việt Nam để sẽ chiếm hết
lãnh hải VN theo đường lưỡi bò chúng đã tự ý vạch ra. Sau khi chiếm biển, chúng
sẽ chiếm tới đất, biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của chúng và đặt tên là
Âu Lạc (cái tên này đã có từ đời An Dương Vương Thục Phán, tức thế kỷ thứ 3
trước Tây lịch).
Dân
tộc Việt Nam
có truyền thống bất khuất, không chịu làm nô lệ. Nhưng có hai vấn đề, thứ nhất
là nước nào cũng vậy, luôn luôn có những “ông lớn” Tần Cối đầy tham vọng, tự
hiến mình làm tay sai cho giặc; thứ hai là TC rất mạnh cả về kinh tế lẫn quân
sự so với Việt Nam, ta khó đánh lại được với chúng.
Mỹ
sẽ giúp thôi với một vài điều kiện do Mỹ đưa ra như về nhân quyền hoặc thể chế
chẳng hạn. Đây là cuộc đấu lớn giữa phe Nhạc Phi và phe Tần Cối trong nội bộ
nước VN. Nhạc Phi có thế mạnh của Nhạc Phi nhưng Tần Cối cũng có thế mạnh của
Tần Cối, chưa bên nào chịu thua bên nào. Dù muốn dù không, bắt buộc Mỹ phải
giúp phe Nhạc Phi để giữ VN, bởi vì nếu TC chiếm được VN sẽ ảnh hưởng tới các
nước Đông Nam Á khác, và khi ấy, TC sẽ sẵn sàng ném ra từ 20 tới 30 tỷ đô la để
đào con kênh Kra dài 100 km tại Thái Lan, ăn thông giữa vịnh Thái Lan tức Thái
Bình Dương với Ấn Độ Dương.
Tất cả các tầu bè sẽ đi lại qua con kênh này, mỗi
ngày khoảng chừng 400 chiếc và… nộp thuế cho TC thay vì đi xa hơn 1000 km qua
vịnh Malacca đầy hải tặc như hiện nay. 20 hay 30 tỷ đô la đối với TC không phải
chuyện lớn. Mỹ đã vô hiệu hoá được anh em Thaksin Shinawatra, không để họ bắt
tay cho phép TC đào con kênh đó ngay từ bây giờ thì trong tương lai, cũng phải
đề phòng nếu “lỡ” sơ xẩy, để TC chiếm được VN chứ. Giữa hai siêu cường Mỹ và TC,
anh nào cũng muốn đào con kênh Kra và đó chính là lý do khiến Mỹ phải giúp VN.
Đoàn
Dự
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.