Gần
đây tôi tình cờ đọc “Thoát Trung luận” của Tiến sĩ Giáp Văn Dương. Tôi
khá ngạc nhiên với lời khẳng định “Lịch sử nước ta có thể được diễn giải tương
đối đầy đủ dưới góc nhìn thoát Trung”. Nếu khẳng định này đúng, thì hệ lụy của
các “giá trị Á Đông” Khổng Nho không đến nỗi sâu sắc đến độ trở thành não trạng
của người dân Việt Nam và nặng nề đến nỗi gây cản trở quá trính tiến về phía
thế giới tự do của chúng ta hôm nay. Nói vậy không phải để thất vọng mà để nhận
thức được rằng người Việt chúng ta phải nỗ lực một cách thành thật, kiên trì và
thậm chí là đau đớn để thực sự “thoát Trung”.
Thoát
Trung giả hiệu hay tự Hán hóa
Từ
sau một ngàn năm Bắc thuộc, các chế độ quân chủ “nội địa” được thành lập và nối
tiếp nhau cai trị đất nước theo mô hình phương Bắc từ chế độ khoa cử đến
hệ thống quan. Quả thật, việc áp đặt tư tưởng ngoại lai bởi những kẻ xâm
lược luôn khó khăn và gặp phải nhiều kháng cự hơn là bởi chính những “ông vua
nước Nam” đầy tính chính đáng và có cả lực lượng quan lại đông đảo cai quản đến
các vùng xa xôi nhất của đất nước. Thật nghịch lý là không phải 1000 năm Bắc
thuộc mà chính là thời kỳ độc lập lại khiến văn hóa Trung Cộng nở rộ ở nước Nam .
Chính cái thời kỳ được gọi độc lập này, tư tưởng Khổng nho chủ đạo trong nền
văn hóa và chính trị Trung Hoa trở thành tư tưởng và văn hóa chủ đạo của Việt
Nam, lấn át tư tưởng Phật giáo đã âm thầm bám rễ vào các làng xã Việt Nam ngay
dưới thời còn bị đô hộ.
Sự
kiện toàn bộ máy quân chủ tập quyền ở Việt Nam song hành cùng với sự thể chế
hóa tư tưởng và văn hóa Khổng Nho. Năm 1070, đời Lý Thánh Tông, Văn miếu Quốc
tử Giám được xây dựng, là nơi thờ các vị “Thánh hiền” và là trường đào tạo các
trí thức Nho học để chuẩn bị nhân sự cho hệ thống quan lại. Thời Trần Thái
Tông, Quốc Tử Giám này còn có điện thờ Chu Cơ Đán – khai quốc công thần của nhà
Chu bên Trung Hoa xa xôi. Thời nhà Nguyễn, quần thể kiến trúc này còn được xây
bổ sung thêm nơi thờ cha mẹ Khổng Tử, không những không liên hệ gì với dân nước
Nam ,
mà còn là những nhân vật không mấy đáng lưu tâm.
Dù
tôn giáo của các vị quân chủ Việt Nam là gì, não trạng và chính sách
cai trị của họ đều mang bản chất Khổng Nho. Sự phụ thuộc về ý thức hệ của các
triều đại quân chủ Việt Nam, về mức độ tuy có khác, nhưng về bản chất không
khác cái cách mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt chủ nghĩa cộng sản
ngoại lai, theo mô hình Nga Sô rồi đến Trung Cộng, lên đất nước này. Các triều
đại quân chủ Trung Hoa có thể năm lần bảy lượt xâm chiếm Việt Nam và các triều
đại Việt Nam dù phải triều cống Trung Hoa để bày tỏ sự khiêm nhường và hiếu hòa
của một quốc gia nhược tiểu. Nhưng họ không có áp lực đòi nhà nước quân chủ
nước Nam phải bắt chước mô hình chính trị của họ, bắt trí thức khoa bảng nước
Nam phải học tập tư tưởng Khổng Nho và người dân nước Nam phải thực hành tập
quán luân lý và nghi lễ theo cách của người Hán. Thiết nghĩ, đây là một sự tự
nguyện hoàn toàn sự lựa chọn của tầng lớp cai trị và thức giả ngày xưa đã
trở thành di sản nặng nề của chúng ta hôm nay.
Tiến
sĩ Dương còn nói thêm: “việc toàn dân đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc
ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này”. Thiễn
nghĩ, việc chuyển sang sử dụng chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo phương Tây
sáng tạo nên không hẳn là minh chứng cho tinh thần “thoát Trung” như cách lý
giải gượng ép của tiến sĩ Dương; mà chỉ là một sự thuận tiện vì chữ quốc ngữ dễ
học hơn và sẽ giúp cho những người thông thạo nó tiến nhanh đến các vị trí công
quyền của chế độ thực dân Pháp hoặc đó là cách tốt để tiếp cận kho học thuật
phương Tây. Ý thức thoát Trung nếu đã bùng phát mạnh mẽ từ thời đó thì Việt Nam đã không có
diện mạo trí thức và văn hóa như hôm nay. Cay đắng thay một quá trình “tự Hán
hóa” (theo cách gọi của kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa)!
Thoát
khỏi tư tưởng Trung Hoa
Cuộc
“thoát Trung” về chính trị, kinh tế có thể được thực hiện bằng chiến tranh (nếu
Việt Nam có đủ sức?) hoặc bằng một sự thay đổi thể chế, khi một chính quyền bài
Hoa, hoặc thân phương Tây được thành lập. Nhưng cuộc “thoát Trung” về tư tưởng
thì khó khăn và dày vò hơn nhiều. “Thoát Trung” này cũng đồng nghĩa với sự
“phương Tây hóa”, nghĩa là sự chắc lọc các giá trị công bằng – đa nguyên
- tự do - dân chủ - nhân quyền. Cuộc “Thoát Trung” ngoạn mục và xứng đáng
trong thời điểm hiện nay không phải là những cổ xúy cho chủ nghĩa dân tộc mà là
sự “tự thắng” trong não trạng của giới trí thức Việt Nam, đặc biệt là giới trí
đấu tranh đòi dân chủ đa nguyên. Vậy thì may ra cuộc “thoát Trung” của chúng ta
mới bền vững và kể từ đó, lịch sử Việt Nam sẽ chuyển hướng mãi mãi khỏi ảnh
hưởng của Trung Hoa đến độ chúng ta có thể làm bạn với họ trong hòa bình và tôn
trọng mà không mảy may lo sợ sự gần gũi này trở thành sự phụ thuộc.
Chế
độ độc tài hiện nay không liên quan gì đến Khổng Nho, nhưng ít nhất, sự tồn tại
dai dẳng của nó có sự trợ lực của những mầm mống Khổng nho còn bám sâu trong
văn hóa người Việt - não trạng thèm khát nhưng vô cùng sợ hãi quyền lực.
Thật vậy, ngay cả khi tính chính đáng của chế độ này bị thách thức liên tục qua
những biến động của thế giới, qua thành tích Nhân quyền tồi tệ, qua thất bại
trong việc đối phó với nguy cơ xâm lăng của chính quyền… người dân vẫn không ý
thức được mình có quyền tước đi quyền lực từ tay tập đoàn cai trị. Và đáng thất
vọng hơn là cách thể hiện của trí thức Việt Nam .
Sự
khúm núm trước mọi thứ quyền lực, đặc biệt là quyền lực chính trị khẳng định
cái tàn tích dai dẳng của các “giá trị Á Đông”, mà chính xác hơn là tinh thần
Khổng Nho còn sót lại lại ở vài quốc gia như Trung Cộng và Việt Nam. Xu hướng
cậy dựa quyền lực, thỏ thẻ van xin mà không dám đối mặt thẳng thắn với (chứ
chưa nói là thách thức) kẻ cầm quyền cũng là một đặc trưng không thể lẫn lộn
của phong cách “kẻ sĩ”. Tư tưởng Không Nho là của Trung Cộng, mô hình cộng
sản biến thái “kinh tế thị trường định hướng XHCN” cũng là của Trung Cộng. Vậy
thử hỏi khi hai gọng kiềm này vẫn còn kẹp chặt xã hội Việt Nam thì chúng
ta làm sao để “thoát Trung”? Mọi cố gắng “thoát Trung” chỉ là sự vùng vẫy vô
vọng của con cóc bị bỏ vào cái lồng rồi quăng xuống ao cứ cố tìm cách thoát
khỏi cái ao mà không biết mình không thể làm gì được khi còn ở trong lồng. (Đây
cách ẩn dụ từ một thân hữu của người viết). Vậy nên, đoạn tuyệt mối liên hệ về
tư tưởng (cả tư tưởng "truyền thống" và tư tưởng cộng sản hiện đại)
mới chính là cuộc thoát Trung thực chất nhất và cũng cần thiết nhất.
Thoát
Trung hay thoát Cộng
Có
lẽ do đã tuyệt vọng với việc dành lại quyền lực từ tay thiểu số độc tài đảng
trị, người dân Việt Nam và nhất là trí thức cố gắng bù đắp vào khoảng trống bi
đát trong cái tôi không được thỏa mãn của mình bằng cách chuyển hóa những bức
xúc mãnh liệt bị đè nén thành những các biểu hiện mang đầy màu sắc chủ nghĩa
dân tộc. Và có lẽ như thế người ta tìm thấy được vai trò cho sự tồn tại của
mình.
Nhà nước độc tài Việt Nam
hiểu rõ tâm lý đó. Họ đè bẹp mọi khát khao tranh giành quyền lực chính trị của
người dân, nhưng chân thành cổ vũ cho thứ chủ nghĩa dân tộc kém tỉnh táo
(theo cách gọi của bác sĩ Phạm Hồng Sơn). Họ còn nhiệt tình thúc đẩy cho
sự chuyển hướng này. Nhưng một cách thông minh, họ chỉ giữ cho những xúc cảm đó
ở mức độ đủ để làm nhòa đi thực trạng độc tài và vi phạm Nhân quyền, chứ
không đến nỗi làm mất lòng người đàn anh và vượt ngoài sự kiểm soát của họ. Sự
tràn ngập các thông tin về biển đảo trên truyền thông Nhà nước và Hội thảo
“thoát Trung” trong thời gian qua là một minh họa cho những lời tôi vừa
khẳng định.
Chính
quyền độc tại hiện nay cho thấy họ đã kiên định lập trường “16 chữ vàng”. Mấy
chục năm nay họ đã thành công trong việc "Hán hóa" chính họ và cả
người dân Việt Nam
một cách toàn diện bằng các chính sách chư hầu của mình. Nhưng dù cho họ có
muốn tập hợp người dân để đoàn kết “thoát Trung”, thì cũng thật ngớ ngẩn nếu
chúng ta lại thêm một lần nữa tái diễn sai lầm trong lịch sử bằng cách xếp hàng
sau lưng họ. Tại sao phải tập hợp dưới ngọn cờ đảng cộng sản (hay bất cứ đảng
nào khác) để thoát Trung? Nhiều người sẽ cho rằng cần sự đoàn kết để chống
ngoại xâm. Bây giờ là thời đại nào rồi? Chiến tranh bằng vũ khí có tính sát
thương cao, nếu không muốn nói là vũ khí nguyên tử đã vô hiệu hóa triệt để sức
người. Nếu không có sức mạnh quân sự thì mọi sự đoàn kết đều không đáng
nói đến. Vấn đề của Việt Nam bây giờ không phải là chiến tranh và tập hợp dưới
ngọn cờ của phe phái nào để chống Trung Cộng; mà là phải dân chủ hóa để từ đó
thay đổi chính sách đối nội, đối ngoại, để vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia mà
không leo thang một cuộc chiến tranh có nguy cơ hủy diệt đất nước.
Trong
tình thế quốc gia lâm nguy, với nhiều cảm xúc hơn lý trí, sự đoàn kết theo tinh
thần quốc gia dưới ngọn cờ quyền lực trung ương có lẽ là ưu tiên đối với
nhiều thức giả Việt Nam .
Trong mắt các vị ấy, một chế độ độc tài có vẻ tốt đẹp hơn, hoặc ít nhất là có
thể chấp nhận được, nhờ lớp trang điểm chống xâm lược. Quả thật, nếu bộ sâu cầm
quyền Việt Nam không lún quá sâu vào hồ sơ bán nước như hiện nay, nếu có
một nhóm lãnh đạo nào trong Đảng cộng sản rút chân được khỏi vũng lầy bán nước
để nhảy ra mà vỗ ngực cầm lấy ngọn cờ chính nghĩa chống ngoại xâm, có lẽ lịch
sử sẽ lặp lại, Việt Nam sẽ không sao thoát nổi kịch bản 1945. Nói như thế
để thấy rõ cái tâm thế của “Dân gần trăm triệu ai người lớn. Nước bốn
ngàn năm vẫn trẻ con”.
Đất
nước và người dân chờ đợi những kiến giải hữu ích từ giới trí thức Việt Nam khắp thế
giới. Hoặc là chúng ta lại để cho thời thế đưa đẩy và chỉ việc nhắm mắt đưa
chân?
Huỳnh
Thục Vy
Ngày
20 tháng 6 năm 2014
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.