Chủ
tịch Tập Cận Bình (trái) ra chính sách, Thủ tướng Lý Khắc Cường thực hiện?
Một
báo cáo quan trọng vừa ra trong tháng Sáu tìm hiểu những thay đổi và mâu thuẫn
trong chính sách ngoại giao của Trung Cộng dưới thời Tập Cận Bình.
Từ
khi chính thức trở thành lãnh đạo tối cao của Trung Cộng tháng Ba 2013, ông Tập
Cận Bình đã thâu tóm quyền lực vô cùng nhanh chóng. Điều này chứng tỏ sự chống
đối nội bộ không nghiêm trọng như dự đoán trước đó, theo báo cáo của Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington .
Báo
cáo của Christopher K. Johnson, viết cùng nhiều người khác, cho rằng các
sắp xếp nhân sự của ông Tập bảo đảm rằng “toàn bộ các quyết định quan trọng đi
qua và xuất phát từ ông”.
Chủ
thuyết ngoại giao
Các
lãnh đạo Trung Cộng khi lên nắm quyền đều đề ra tư tưởng chiến lược mới. Với
Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, đó là các cụm từ “Lý luận Đặng
Tiểu Bình”, “Tư tưởng ba đại diện” và “Tư tưởng phát triển khoa học”.
Còn
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lại nói mục tiêu phát triển trong
tương lai là thực hiện "Giấc mơ Trung Quốc", đem lại “sự phục hưng
vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”. Điều này có nghĩa là đến năm 2049, cũng là
100 năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Bắc Kinh muốn trở lại vị trí
thống lĩnh khu vực.
Trong
khuôn khổ chiến lược này, Bắc Kinh tiếp tục xem quan hệ ổn định với Mỹ là “mục
tiêu đối ngoại chủ chốt”. Ngoại trưởng Vương Nghị, vào tháng Ba 2014, tuyên bố
phong cách mới của quan hệ nước lớn là “phá vỡ mô hình lịch sử của xung đột và
đối đầu giữa các nước lớn”.
Tuy
vậy, các tác giả nói vẫn không rõ các điều kiện của Trung Cộng đặt ra để có sự
ổn định này.
Nhìn
lạc quan, Trung Cộng xem quan hệ Mỹ - Trung hơi giống giai đoạn hòa hoãn giữa
Mỹ và Liên Xô trước đây: tránh xảy ra xung đột trực tiếp.
Nhưng
lại có đánh giá bi quan hơn rằng Trung Cộng muốn Mỹ phải chấp nhận định nghĩa
“lợi ích cốt lõi” của Bắc Kinh. Cũng trong tuyên bố của ông Vương Nghị hồi
tháng Ba, ông này định nghĩa tôn trọng nhau là tôn trọng “chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, hệ thống xã hội và con đường phát triển, và các lợi ích cốt lõi và
quan ngại”.
Ông
Tập Cận Bình tăng cường quan hệ với Nga
Hai
cách tiếp cận trái ngược này cùng hiện rõ trong hành vi của Trung Cộng dưới
thời Tập Cận Bình. Một mặt, quân đội Mỹ - Trung đã cải thiện quan hệ. Báo cáo
thậm chí cho rằng “có dấu hiệu” Trung Cộng sẽ khó cắt đứt toàn bộ quan hệ quân
sự nếu Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan. Hai nước cũng bày tỏ mong muốn sẽ thiết lập
hệ thống thông báo cho nhau về các diễn biến điều động quân đội trong vùng.
Nhưng
những tháng gần đây, bằng chứng “đen tối hơn” đã có. Hồi tháng Tư, Bộ trưởng
Quốc phòng Trung Cộng Thường Vạn Toàn, khi họp báo với người tương nhiệm Mỹ
Chuck Hagel, kêu gọi Mỹ phải giữ Nhật Bản “trong vòng kiềm chế, không dễ dãi và
ủng hộ”. Ông này cũng gọi đồng minh Philippines của Mỹ là “giả vờ làm
nạn nhân” khi nộp đơn kiện Trung Cộng vì biển đảo. Nó cũng giống như các bình
luận của quan chức và học giả Trung Cộng cho rằng quan hệ Mỹ - Trung bị xấu đi
vì Mỹ ủng hộ các nước có mâu thuẫn với Trung Cộng.
Ngoại
giao nước lớn
Một
điểm quan trọng trong chính sách ngoại giao thời Tập Cận Bình là sự nhắc lại
quan niệm “ngoại giao nước lớn”, vốn lần đầu được đề cập dưới thời Giang Trạch
Dân. Trước đây, Giang chủ tịch thừa nhận Trung Cộng vẫn phải chịu các hạn chế
do Mỹ áp đặt. Nhưng hiện nay, quan niệm này lại đặt mối quan hệ với Mỹ ở trạng
thái bình đẳng hơn.
Dĩ
nhiên ông Tập muốn có quan hệ tốt và ổn định với Mỹ. Nhưng báo cáo cho rằng
khác với các lãnh đạo Trung Cộng trước đây, ông Tập dường như muốn gửi tín hiệu
cho Washington rằng “chúng tôi còn nhiều lựa chọn”. Nó thể hiện qua mối quan
tâm của ông Tập dành cho Nga trong hợp tác an ninh, chính trị, và châu Âu trong
quan hệ thương mại.
Trước
Nhật Bản, quan niệm rằng Trung Cộng cần hành xử như một đại cường dẫn đến hệ
quả đòi Nhật phải đứng thấp hơn trong quan hệ song phương và trong địa chính
trị khu vực. Việc lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Hoa Đông là một
trong những biện pháp nhằm tạo sức ép liên tục và gây cảm giác cô lập cho Nhật.
Tương
tự, trong quan hệ với Bắc Hàn, ông Tập muốn nói với Bình Nhưỡng rằng “quan hệ
đặc biệt” trong quá khứ đã không còn, được thay bằng quan hệ “bình thường” giữa
nhà nước với nhau.
Quan
hệ với ASEAN
Ông
Tập Cận Bình gọi quan hệ với các nước Đông Nam Á “như môi với răng”. Ông hứa
hẹn sẵn sàng cùng với các nước ASEAN bàn thảo việc ký kết Hiệp ước
Láng giềng hữu nghị và Hợp tác. Chủ tịch Trung Cộng cũng hy vọng đến năm
2020, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Cộng và ASEAN sẽ lên tới
một nghìn tỷ đôla Mỹ.
Vụ
giàn khoan Hải Dương 981 khiến Việt Nam lên án Trung Cộng
Tuy
vậy, không chắc Tập Cận Bình có thể thành công trong quan hệ hữu hảo với các
nước Đông Nam Á. Mặc dù Bắc Kinh đã tăng mạnh đầu tư để “xây dựng kết nối”,
vẫn có nghi ngờ ở nhiều nước ASEAN về sự phụ thuộc Trung Cộng, cũng như nghi
ngờ rằng hợp tác kinh tế đem lại lợi ích chủ yếu cho Trung Cộng. Sự hung hăng
hơn của Trung Cộng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông cũng làm tăng lo ngại.
Theo
báo cáo của CSIS, các lãnh đạo ASEAN nói chung có những nhận định sau về chính
sách ngoại giao dưới thời Tập Cận Bình:
Ông
Tập là chủ soái: ASEAN cho rằng Tập Cận Bình đã thâu tóm quyền lực nhanh
và hiệu quả hơn mọi lãnh đạo khác từ thời Đặng Tiểu Bình.
Dân
tộc chủ nghĩa: ASEAN tin rằng ông Tập đặt lợi ích của Trung Cộng, gồm cả
vấn đề chủ quyền, lên cao hơn mọi tính toán. Mặc dù Bắc Kinh nhấn mạnh quan hệ
“đại gia đình” với Asean, Trung Cộng cũng quyết tâm giành ưu thế trong tranh
chấp Biển Đông.
Ông
Tập là cơ hội: Một lập luận trong khối ASEAN là chính sách ngoại giao của
Tập Cận Bình sẽ nhấn mạnh hợp tác, chứ không thách thức hay kiểm soát, láng
giềng. Nhưng quan điểm này dường như bị bác bỏ qua các hành động như vụ giàn
khoan Hải Dương 981 gây rạn nứt quan hệ với Việt Nam .
Ông
Tập là đe dọa: Một lập luận ngược lại cho rằng Trung Cộng sẽ có chính sách
ngoại giao hung hăng hơn, đặc biệt nếu Bắc Kinh cho rằng Washington yếu thế và
bớt quan tâm.
Một
nhận định khác từ báo cáo là ông Tập có vẻ muốn duy trì ấn tượng khủng hoảng để
biện minh cho quyền lực to lớn của cá nhân, cũng như sự táo bạo và quy mô cải
tổ mà ông xúc tiến ở trong nước.
Ông
phải “tô vẽ một số lựa chọn khó khăn của đảng theo ngôn ngữ sống chết”. Một ví
dụ là sự nhấn mạnh vấn đề biển đảo. Mô tả của ông Tập đối với các thách thức
trên biển tỏ ra cứng rắn hơn và mang tính chất chiến lược. Họp với Bộ Chính trị
tháng Bảy năm ngoái, ông Tập nói “đại dương và biển ngày càng có vị trí chiến
lược quan trọng trong cuộc cạnh tranh toàn cầu ở các lĩnh vực chính trị, phát triển
kinh tế, quân sự, và công nghệ”.
Ông
Tập cũng ngụ ý rằng mặc dù Trung Cộng đang có cơ hội phát triển, nước này cũng
đối diện đe dọa gia tăng. Ông nhấn mạnh xây dựng tư tưởng quân đội
"phải biết đánh trận, đánh thắng trận; mở rộng chí tiến thủ,
cải cách sáng tạo”.
Báo
cáo của CSIS nói cần xem xét hệ quả khi đối phó với một nhà lãnh đạo mà dường
như nghĩ rằng rất cần duy trì “mức độ căng thẳng nhất định”, cả trong và ngoài
nước, để đạt được các mục tiêu chính sách của ông.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.