“…Nguyễn
Tấn Dũng có thể không phải là người nhiệt tình nhất với chính sách phục tùng Trung
Cộng nhưng cũng không ai có thể thân Trung Cộng hơn ông. Muốn "thoát
Trung" mà lại "phò Dũng" là rất sai, sai một cách bi đát…”
...những
lời tuyên bố mơ hồ, chung chung, vớ vẩn của ông Dũng
"thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta"...
"thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta"...
Một
tháng rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng biển thuộc
đặc quyền kinh tế của Việt Nam .
Giàn khoan vẫn còn đó những dư luận thế giới đã ngoảnh sang những vấn đề khác.
Bắc Kinh đã thành công một bước trong tiến trình bình thường hóa sự chiếm đoạt
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Bước tiến này mở đường cho những hành động lấn chiếm khác.
Hành
động của Bắc Kinh đáng lẽ là một sự dại dột và đã phải thất bại bẽ bàng; không
những thế còn tạo cho Việt Nam một cơ hội để tái khẳng định chủ quyền trên
Hoàng Sa, Trường Sa và các quyền lợi chính đáng trên Biển Đông theo qui định
của luật pháp quốc tế. Trong những ngày đầu khi Trung Cộng vừa đưa giàn khoan
HD-981 vào hải phận Việt Nam lập trường của các chính phủ -Hoa Kỳ, Châu Âu cũng
như các nước trong khu vực Thái Bình Dương- đã đồng thanh lên án hành động của Trung
Cộng như là một sự khiêu khích. Ngược lại không một quốc gia nào bênh vực Trung
Cộng cả. Một cách mặc nhiên thế giới đã nhìn nhận Hoàng Sa và vùng biển chung
quanh không phải là của Trung Cộng, nghĩa là của Việt Nam hay ít nhất có thể được coi là của Việt Nam .
Điều
gì sẽ xảy ra nếu Việt Nam
phản ứng một cách mạnh mẽ, dù ôn hòa, đối với Trung Cộng và đưa vấn đề ra trước
Liên Hiệp Quốc? Chắc chắn Trung Cộng sẽ xấc xược phủ nhận thẩm quyền của Tòa Án
Công Pháp Quốc Tế (International Court of Justice) và cũng sẽ sử dụng quyền phủ
quyết nếu Việt Nam đưa vấn đề ra Hội Đồng Bảo An. Nhưng đó là tất cả những gì
mà chúng ta chờ đợi. Trung Cộng sẽ bị cô lập và lên án, chủ quyền của Việt Nam sẽ
được thừa nhận về mặt tình cảm, Trung Cộng sẽ phải trả giá đắt hơn nhiều nếu
tái diễn sự khiêu khích. Có mọi triển vọng là họ không dám tái diễn vì Trung
Cộng vừa rất lệ thuộc vào thế giới vừa không đủ mạnh để thách thức thế giới,
hơn nữa lại đang sắp đi vào một cuộc khủng hoảng lớn. Tóm lại giàn khoan của Trung
Cộng sẽ rút đi sau một vài tháng chi phí tốn kém, sau khi bị lên án và khiến
Việt Nam
được bênh vực.
Nhưng
thực tế đã không như vậy bởi vì chính quyền cộng sản Việt Nam đã không có
phản ứng. Hành động xâm lược của Trung Cộng vẫn tiếp tục và không còn lôi kéo
sự chú ý của thế giới nữa. Lần sau nếu tình trạng này lặp lại sự chú ý của thế
giới sẽ còn ít hơn. Lẽ phải lúc đó sẽ chỉ là lý của kẻ mạnh.
Những
gì chính quyền CSVN đã làm, như phổ biến một thư luân lưu tới các thành viên
LHQ một tháng sau khi sư kiện khởi đầu, một vài tuyên bố nguyên tắc và một số
tàu cá và cảnh sát biển tới gần hiện trường, không đáng được coi là một phản
ứng. Ngay cả nếu chính quyền CSVN muốn dâng biển và đảo cho Trung Cộng trong
một thỏa hiệp ngầm họ cũng khó có thể phản ứng yếu hơn.
Hành
động của Trung Cộng vừa là một hành động lấn chiếm vừa là một hành động chiến
tranh bởi vì họ đem theo cả hàng trăm tàu chiến và đánh phá các tàu của Việt Nam , kể cả tàu của cảnh sát biển Việt Nam .
Trước một biến cố nghiêm trọng như vậy bất cứ một chính quyền nào trên thế giới
cũng đã phải thông tin và giải thích đầy đủ cho nhân dân biết những gì xảy ra
qua thông điệp long trọng của quốc trưởng và thủ tướng cùng với những phát biểu
của các bộ trưởng và các cấp lãnh đạo chính trị để động viên toàn dân đoàn kết
trong cố gắng giữ nước, đồng thời lập tức đưa vấn đề ra công pháp quốc tế.
Nhưng
chúng ta đã thấy gì?
Ông
tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn không nói gì trước hội nghị trung ương
của đảng cộng sản diễn ra đúng lúc Trung Cộng đang trắng trợn xâm phạm vùng
biển Việt Nam và cũng không thấy có ủy viên trung ương đảng nào tỏ ra bức xúc.
Hình như đối với ông Trọng và đảng cộng sản không có vấn đề gì cả.
Về
phía nhà nước cả chủ tích nước lẫn thủ tướng đều không tuyên bố gì với quốc
dân. Quốc hội cũng không có phản ứng. Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang kêu ca
trong một buổi tiếp xúc với cử tri một quận rằng"anh phải rút đi chứ, nhà
tôi chứ đâu phải nhà anh!". Không khác gì một người dân oan trong số
hàng triệu dân oan của chế độ. Ông chủ tịch thừa biết những tiếng kêu than này
chẳng có tác dụng gì. Ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ nói trước hội nghị
ASEAN một phần rất nhỏ những điều mà mọi người đều đã biết và cũng không dám
kêu gọi hậu thuẫn của thế giới, sau đó cũng chỉ trả lời với ký giả nước ngoài,
tại nước ngoài, rằng"không chấp nhận đánh đổi chủ quyền để nhận lấy một
thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc". Không một cấp lãnh đạo quốc
gia nào trong trường hợp Việt Nam khi ra nước ngoài và bị các ký giả chất vấn
có thể nói yếu hơn.
Ông
đại tướng bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh được một cơ hội bằng vàng để
bảo vệ lập trường của Việt Nam
khi tham dự Đối Thoại Shangri-La 13. Trước đó cả thủ tướng Nhật Shinzo Abe lẫn
bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đều đã mạnh mẽ tố giác hành động của Trung
Cộng và tuyên bố sẽ không để Trung Cộng lộng hành trên Biển Đông, sẽ sẵn sàng
giúp các nước trong vùng, kể cả Việt Nam, phương tiện tự vệ. Một chính quyền
Việt Nam
quan tâm bảo vệ chủ quyền không thể mong đợi nhiều hơn. Tuy vậy ông Thanh đã
tuyên bố rằng "quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung
Cộng về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp"và vụ giàn khoan
HD-981 chẳng có gì nghiêm trọng vì "mỗi gia đình cũng còn có những mâu
thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng". Chẳng khác gì bảo
Mỹ, Nhật và thế giới đừng xía vào, hãy để mặc Việt Nam giải quyết với Trung Cộng.
Nhưng giải quyết như thế nào? Ông Thanh chỉ dám "đề nghị Trung
Cộng rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam ". Thật
khó có thể có một bộ trưởng quốc phòng bất xứng hơn.
Bộ
ngoại giao cũng không dám triệu tập đại sứ Trung Cộng để phản đối dù đây là
phản ứng nhẹ nhất trong trường hợp này. Các chính phủ triệu tập đại sứ trong
những trường hợp không quan trọng hơn nhiều; thí dụ như Bắc Kinh đã triệu tập
đại sứ Mỹ tại Trung Cộng để phản đối việc năm sĩ quan Trung Cộng bị tố giác là
có hoạt động gián điệp. Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam là một đại sứ hay một thái thú?
Tệ hơn nữa, bộ ngoại giao còn làm một việc rất vô ý thức là triệu tập đại
điện sứ quán Trung Cộng (nhấn mạnh: đại diện sứ quán chứ không phải đại sứ) sau
khi một tàu cá Việt Nam
bị đụng chìm ngày 26-5. Như vậy là việc Trung Cộng tìm dầu trong hải phận Việt Nam không
nghiêm trọng bằng một chiếc tàu cá bị đụng chìm? Chỉ một tháng sau khi hành
động xâm lược của Trung Cộng diễn ra phái bộ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc mới
cho phổ biến một thư luân lưu đến đại diện các nước, nhưng đây cũng chỉ là một
thông báo mà thôi chứ không kêu gọi một hành động quốc tế nào cả.
(Đến
đây xin mở một ngoặc đơn. Sự nhu nhược này không phải do lỗi của bộ ngoại giao,
mà là vì bộ ngoại giao không có quyền quyết định. Chính sách cũng như hành động
đối ngoại hoàn toàn ở trong tay một một vài người trong bộ chính trị; những
người này khống chế được bộ máy đảng và nhà nước và quyết định chính sách đối
ngoại một cách hoàn toàn bí mật. Ngay cả những cấp lãnh đạo, kể cả đa số ủy
viên trung ương đảng, cũng chỉ biết đến những thay đổi định hướng đối ngoại rất
lâu sau khi chúng đã thành một thực tế. Cuối thập niên 1950 Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ quyết định theo Trung Cộng (để có thể phát động nội chiến) và thanh trừng
những phần tử bị cáo buộc là "xét lại chống đảng" vì thân Liên Xô.
Không ai biết. Gần mười năm sau họ đổi hướng 180 độ và theo Liên Xô chống Trung
Cộng. Cũng không ai biết. Năm 1984 sau khi Liên Xô bối rối không bảo vệ được
chế độ CSVN nữa, Nguyễn Văn Linh được đưa trở lại bộ chính trị rồi trở thành
tổng bí thư để thực hiện chính sách đầu hàng và thần phục Trung Cộng cùng với
Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Vẫn không ai biết. Trí thức Việt Nam còn tung hô
Nguyễn Văn Linh như một người của đổi mới mà không biết rằng ông ta chỉ là
người của Trung Cộng).
Chính
quyền CSVN đã không nói gì với nhân dân. Họ không cần giải thích gì cả bởi vì
họ không thấy có một bổn phận nào đối với nhân dân Việt Nam cả; họ là một lực lượng chiếm đóng và thống
trị chứ không phải là một chính quyền Việt Nam . Họ còn dùng bọn côn đồ - mà họ
vẫn thường dùng để hành hung những người dân chủ - để gây bạo động và lấy đó
làm cớ để cấm đoán những cuộc biểu tình của những người yêu nước phản đối hành
động xâm lược của Bắc Kinh. Nếu họ thực sự là dụng cụ của Trung Cộng để bán
đứng đất nước họ cũng không thể làm khác.
Chúng
ta có thể tự hỏi tại sao Trung Cộng lại làm như vậy? Hành động của họ đáng lẽ
phải là một hành động ngu xuẩn rất có hại cho họ, nhưng họ đã thành công bởi vì
họ biết trước phản ứng của Hà Nội. Tất cả diễn ra như một kịch bản đã được
chuẩn bị trước.
Không
thể loại trừ khả năng là giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã có những thỏa ước không
được công bố và Bắc Kinh đã dựa vào đó để hành động. Nếu không thì không ai có
thể giải thích tại sao chính quyền Hà Nội không đưa vấn đề ra công pháp quốc tế
dù sau hơn 20 lần tiếp xúc vẫn chỉ nhận được một câu trả lời trịch thượng của
Bắc Kinh là không có gì để thảo luận cả vì họ hoàn toàn đúng. Người ta có thể
nghĩ như vậy khi đọc lại bản tuyên bố chung Việt – Trung ngày 21/06/2013 sau
chuyến thăm viếng Bắc Kinh của ông Trương Tấn Sang:
"Hai
bên hoan nghênh Thỏa thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm
dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết
giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước, nhất trí mở rộng diện tích khu vực
thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận, cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò
chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm
đạt được tiến triển tích cực". (Tác giả tô đậm những cụm từ đáng chú
ý).
Thỏa
thuận sửa đổi nào? Thoả thuận thăm dò chung nào? Khu vực thỏa thuận nào? Mở
rộng diện tích khu vực thỏa thuận tới đâu? Nhân dân Việt Nam không được biết, tất cả đều chỉ là những cam
kết dấm dúi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và quan thày Trung Cộng của họ.
Cũng không nên quên câu nói của thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - một người rất
thân cận với ông Dũng đồng thời cũng là một trong những người nhiều quyền lực
nhất hiện nay - đại diện Việt Nam trong cuộc đàm phán Việt – Trung năm 2012: "Việt
Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Cộng trên mọi lĩnh
vực ". Không còn bất cứ băn khoăn nào, vậy việc Trung Cộng chiếm Hoàng
Sa và Trường Sa coi như đã xong? Nếu quả thực như thế thì Trung Cộng có quyền
làm những gì họ đang làm. Có những lúc mà ngôn ngữ không đủ để nói lên sự ngạc
nhiên và phẫn nộ.
Cũng
đáng ngạc nhiên và thất vọng không kém là thái độ của nhiều trí thức Việt Nam . Họ chống
ách lệ thuộc Bắc Kinh và muốn "thoát Trung" nhưng lại ủng hộ Nguyễn
Tấn Dũng. Đối với họ Nguyễn Tấn Dũng là người tiến bộ, thân phương Tây và dám
đối đầu với Bắc Kinh. Lý do là vì ông đã gửi con đi du học Mỹ, đã gửi thông
điệp đầu năm nói tới "đổi mới thể chế" và "xây dựng dân
chủ" và mới đây đã công khai phản đối việc Trung Cộng vi phạm vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, sau đó lại tuyên bố không chấp nhận quan hệ lệ
thuộc.
Tại
sao lại có thể nông cạn và dễ tính đến thế được? Việc ông Dũng gửi con sang du
học tại Mỹ không chứng minh gì cả; phần lớn các lãnh tụ chóp bu Nga và Trung
Cộng cũng làm như thế, chính bản thân Tập Cận Bình cũng đã thực tập tại Mỹ.
Chính quyền Trung Cộng cũng vừa tiết lộ là có hơn một nghìn quan chức tỉnh
Quảng Đông gửi con du học các nước phương Tây. Gửi con đi học tại Mỹ không có
nghĩa là thân Mỹ. Mà dù có được đào tạo tại phương Tây cũng không có nghĩa là
đã trở thành người dân chủ. Cho tới thập niên 1980 hầu như tất cả các chế độ
Châu Mỹ La Tinh đều là những chế độ độc tài mafia do những kẻ tốt nghiệp tại
các trường đại học Mỹ cầm đầu. Bachar al Assad, tên độc tài khát máu tại Syria , tốt
nghiệp tại Anh. Giáo dục quả nhiên thay đổi cách suy nghĩ nhưng thường phải một
hai thế hệ. Người ta cố tình gán cho Nguyễn Tấn Dũng những chủ trương mà ông
không bao giờ có, hơn nữa còn chống lại một cách hung bạo. Có những vị hân hoan
vì ông Dũng nói tới "phát huy dân chủ" trong bài thông điệp đầu năm,
nhưng đó hoàn toàn chỉ là thứ dân chủ mà ĐCSVN đã nói tới từ thời Việt Nam Dân
Chủ Công Hòa, nghĩa là dân chủ kiểu xã hội chủ nghĩa, cái dân chủ mà bà Nguyễn
Thị Doan đánh giá là ưu việt gấp triệu lần dân chủ đa nguyên đa đảng. Hoàn toàn
không có gì mới. Điều chắc chắn là ông Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố "nhất
định không để nhen nhúm những tổ chức đối lập". Đó là xây dựng dân
chủ? Cũng đừng quên rằng chính ông Dũng đã ký quyết định 97/2009/QĐ-TTg cấm
phản biện và khai tử nhóm IDS.
Ca
tụng ông Dũng là dám chống Trung Cộng cũng chỉ là lấy mơ ước làm sự thực, hay
tệ hơn nữa là tán tụng kẻ có quyền, một thái độ chẳng có gì đáng tự hào. Về vụ
HD-981 ông Dũng đã chỉ nói một phần nhỏ những điều mà mọi người đã biết. Còn
câu "không chấp nhận đánh đổi chủ quyền để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu
nghị viển vông, lệ thuộc"thì quả là vớ vẩn. Có gì là khảng khái? Ai có thể
nói ngược lại? Ông Dũng còn phải cố gắng nhiều, rất nhiều, nếu muốn chứng tỏ
thực tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Điều
chắc chắn là ông Dũng đã góp phần quyết định đưa Việt Nam đi sâu vào
thế lệ thuộc Trung Cộng. Lệ thuộc Trung Cộng là chọn lựa chiến lược của ĐCSVN
từ giữa năm 1984 và là trách nhiệm chung của các bộ chính trị từ đó. Nhưng cũng
có những điều chủ yếu thuộc trách nhiệm của hành pháp, nghĩa là thủ tướng. Như
cho Trung Cộng thuê dài hạn rừng đầu nguồn; cho Trung Cộng thuê những vùng biển
rộng lớn để khai thác hải sản; cho các doanh nghiệp Trung Cộng đưa công nhân ồ
ạt sang Việt Nam và tổ chức như những khu riêng của người Hoa; cho người và
hàng hóa Trung Cộng vào Việt Nam không kiểm soát; xuất khẩu hàng hóa Trung Cộng
mang nhãn made in Vietnam sang Hoa Kỳ và Châu Âu đưa thâm thủng mậu
dịch với Trung Cộng lên 24 tỷ USD; cho Trung Cộng trúng thầu gần hết các dự án
và sau đó thi công một cách bê bối v.v. Cũng đừng quên Nguyễn Tấn Dũng là người
bảo vệ dự án Bô-xit Tây Nguyên một cách quả quyết nhất, tuyên bố "dự
án này phải tiếp tục vì là một chủ trương lớn của Đảng". Đinh Đăng
Định chỉ có tội phản đối dự án này mà bị cầm tù tới chết. Riêng về điểm này
phải nhìn nhận là ông Trương Tấn Sang đã tỏ ra có trách nhiệm hơn và phần nào
đã bênh vực những người phản đối. Điếu Cày có tội gì mà bị xử tới 12 năm tù sau
khi đã ở tù 3 năm? Anh chẳng viết hay tuyên bố gì đáng nói. Tội duy nhất của
Điếu Cày là đã tổ chức những cuộc biểu tình chống ngọn đuốc Thế Vận Bắc Kinh
2008. Nguyễn Xuân Nghĩa bị xử 6 năm tù -và còn bị công an cho thường phạm đánh
trong tù- chỉ vì căng những biểu ngữ "Hoàng Sa Trường Sa Việt
Nam". Không thể nói rằng đây là chính sách của Đảng; chính sách phục
tùng Trung Cộng là của Đảng nhưng sự hung bạo là của Nguyễn Tấn Dũng. Cũng
không nên quan trọng hóa quá đáng vai trò của bộ chính trị. Ông Dũng chẳng coi
bộ chính trị ra gì, bộ chính trị muốn kỷ luật ông mà không được, muốn đưa hai
ông Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào bộ chính trị cũng không được. Nguyễn
Tấn Dũng mạnh hơn bộ chính trị vì kiểm soát được đa số trong ban chấp hành
trung ương. Ai thắc mắc điều này có thể nhìn vào những bản án dành cho Trần
Huỳnh Duy Thức và Cù Huy Hà Vũ. Duy Thức sử dụng tài liệu do văn phòng Trương
Tấn Sang cung cấp để tố cáo Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng và lãnh 16 năm tù trước
sự bất lực của phe Trương Tấn Sang, Hà Vũ đòi kiện Nguyễn Tấn Dũng về vụ Bô-xit
và lãnh 7 năm dù thuộc diện con cháu công thần và được nhiều che chở ngay trong
đảng. Bản hiến pháp mới vừa có hiệu lực từ đầu năm nay trong đó nét đậm nhất là
rập khuôn theo chế độ Trung Cộng cũng là do ông Dũng đưa ra trước đại hội Đảng
thứ 11; chỉ có điều là sau đó có quá nhiều vụ bê bối bị phát giác khiến ông
không giành được chức tổng bí thư đảng như dự tính.
Cũng
Nguyễn Tấn Dũng vừa ra chỉ thị cấm biểu tình phản đối Trung Cộng xâm phạm hải
phận Việt Nam .
Tại sao cấm những cuộc biểu tình chính đáng này? Và tại sao không thấy trí thức
trong nước nào lên tiếng mạnh mẽ phản đối quyết định này? Ông Dũng viện cớ ngăn
ngừa những bạo loạn như đã xảy ra tại Bình Dương, nhưng ai điều động bọn côn đồ
đập phá? Bọn này rõ ràng là được công an bảo kê. Chúng chỉ có vài chục đứa mà
dám đến các doanh nghiệp đòi phải để công nhân ngừng làm việc để đi biểu tình
và khi được trả lời là công nhân đã đi biểu tình rồi thì đòi vào khám nhà máy
xem còn công nhân không. Nhà máy cầu cứu thì được công an lời là "không
thể làm gì cả". Tại sao công an lại không thể làm gì cả, trừ khi được lệnh
cấm can thiệp? Rồi sau những thiệt hai to lớn đã có sĩ quan công an nào bị
khiển trách không? Bình thường trước một sư kiện nghiêm trọng như vậy chính bộ
trưởng công an phải tự kiểm điểm, thậm chí phải từ chức hoặc bị cách chức. Nên
nhớ rằng công an hoàn toàn ở trong tay ông Dũng. Giải thích hợp lý nhất là
chính ông Dũng đã tạo ra những cuộc bạo loạn này để có cớ cấm những cuộc biểu
tình chống Trung Cộng. Nhưng giải thích này có thể chưa đủ. Có thể còn có cả sự
phối hợp với Trung Cộng - cả trong vụ giàn khoan HD-981 lẫn những diễn tiến sau
đó - để tạo ra một tình trạng căng thẳng vừa biện minh cho sự suy sụp kinh tế
không thể che giấu được nữa vừa giúp Nguyễn Tấn Dũng lấy cớ vãn hồi an ninh
trật tự làm một cuộc đảo chính – công khai hoặc ngầm - thu tóm mọi quyền lực
trong tay và vô hiệu hóa các đối thủ. Rất có thể. Bởi vì Trung Cộng không thể
tìm được một đồng minh lý tưởng hơn ông Dũng, ông vừa hợp tác tận tình với Trung
Cộng vừa thẳng tay đàn áp những người chống Trung Cộng. Ai cũng phải thấy là vụ
giàn khoan HD-981 đã chỉ có lợi cho Nguyễn Tấn Dũng.
Nguyễn
Tấn Dũng có thể không phải là người nhiệt tình nhất với chính sách phục tùng Trung
Cộng nhưng cũng không ai có thể thân Trung Cộng hơn ông. Muốn "thoát
Trung" mà lại "phò Dũng" là rất sai, sai một cách bi đát.
Có
thể nói gì thêm về Nguyễn Tấn Dũng?
Khi
lên làm thủ tướng ông tuyên bố nếu không dẹp được tham nhũng ông sẽ từ chức.
Thực tế là tham nhũng không giảm đi, cũng không thể nói là tăng lên, mà phải
nói là đã bùng nổ dưới chính phủ của ông Dũng. Hối lộ, vơ vét, móc ngoặc, mua
quan bán chức đã trở thành qui luật dưới chính quyền Nguyễn Tấn Dũng. Phải nói
một cách thật rõ rệt: nếu không dẹp được tham nhũng thì đất nước không có tương
lai. Nguyễn Tấn Dũng không dẹp mà còn giúp tham nhũng bành trướng. Như vậy
không thể viện dẫn bất cứ lý do nào để ủng hộ ông.
Ông
Dũng đã khởi xướng ra "sáng kiến" dùng bọn côn đồ làm cánh tay nối
dài của công an để hành hung dân oan và những người dân chủ. Tôi được nghe hai
tiếng "đầu gấu" lần đầu tiên từ ông Hoàng Minh Chính qua điện thoại
năm 2002. Ông Chính cùng các thân hữu tới tòa án ủng hộ Lê Chí Quang đang bị
xét xử. Ông la lên: "Chúng nó dùng bọn đầu gấu đánh anh em dân
chủ!". Lúc đó ông Dũng vừa lên làm phó thủ tướng trực nhưng quyền lực át
hẳn ông thủ tướng rất lu mờ Phan Văn Khải. Vài năm sau chính ông Hoàng Minh
Chính cũng bị bọn đầu gấu xô đẩy và bị ném đồ dơ bẩn khi đi chữa bệnh ở Mỹ về,
người nhà bị hành hung. Hiện tượng đầu gấu liên tục phát triển cùng với quyền
lực của ông Dũng, đến mức giờ đây khó phân biệt công an và côn đồ. Hầu như
không có người dân chủ trẻ nào không bị đánh, kể cả các phụ nữ như Phạm Thanh
Nghiên, Nguyễn Hoàng Vi.
Dưới
chính quyền của ông Dũng công an trở thành hung bạo. Hiện tượng tra tấn nghi
can, dùng thường phạm đánh chính trị phạm trong nhà tù, đánh người, thậm chí
đánh chết người, trong đồn công an ngày càng trở thành bình thường. Đó chủ yếu
là thành quả của ông Dũng. Không thể nói rằng trách nhiệm của ông Dũng chỉ là
đã không kiểm soát được công an. Ông nắm rất vững lực lượng công an, ông xuất
thân là một công an và từng là thứ trưởng trực bộ công an. Công an không thể
làm những gì mà ông cấm.
Nhiều
người nói hãy cứ tập trung phát triển kinh tế rồi sẽ có dân chủ. Những người
này không hiểu kinh tế và nói bậy. Nhưng ngay cả như thế thì Nguyễn Tấn Dũng
cũng không phải là người lãnh đạo quốc gia chấp nhận được. Ông tỏ ra rất thiếu
bài bản về kinh tế.
Một
vài thí dụ:
-Ít
lâu sau khi chính thức lên làm thủ tướng ông sang thăm Mỹ và tìm gặp Alan
Greenspan, vừa mãn nhiệm kỳ chủ tịch ngân hàng trung ương Mỹ, để chiêm ngưỡng
một thiên tài kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn sau thế giới nhận ra Alan
Greenspan là thống đốc tồi nhất từ một thế kỷ và đã gây ra cuộc khủng hoảng
toàn cầu chưa từng có.
-
Cuối năm 2007 ông Dũng tung ra 150 nghìn tỷ đồng để mua 9 tỷ USD làm cả nước
điêu đứng vì vật giá tăng vọt, lý do là để "hỗ trợ đồng đô la" vì sợ
hối suất đồng đô la Mỹ sẽ giảm sút nghiêm trọng so với đồng tiền Việt Nam; dự
đoán này sai một cách lố bịch vì điều ngược lại đã xảy ra. Đồng đô la lúc
đó bằng 15.000 đồng Việt Nam ,
ngay sau đó nó đổi lấy 18.500 đồng.
-
Cuối năm 2008 chính phủ của ông Dũng trổ tài một lần nữa. Thấy thực phẩm lên
giá đột ngột họ ra lệnh cấm xuất cảng gạo vì nghĩ rằng giá gạo sẽ còn tăng thêm
và sợ bán hố. Sau đó thì giá gạo xuống nhanh và nông dân khốn khổ. Thực ra giá
thực phẩm chỉ biến động trong một thởi gian ngắn, ngay lúc ông Dũng lấy quyết
định ngớ ngẩn đó thị trường gạo đã trở lại bình thường rồi.
-
Năm 2009 ông Dũng tung ra "gói kích cầu" 8 tỷ USD để kích thích tăng
trưởng kinh tế. Theo lời bộ trưởng Kế Hoạch và Đầu Tư Bùi Quang Vinh thì số
tiền 8 tỷ USD này đã mất toi và "doanh nghiệp bây giờ chết hết
rồi".
Sai
lầm tai hại nhất của ông Dũng là lập ra những tập đoàn lớn, bắt chước các
chaebol của Hàn Quốc dù không có những cấp lãnh đạo tương xứng và cũng không có
cả những công ty đúng nghĩa. Kết quả là tất cả 127 tập đoàn đều lỗ nặng vì chỉ
là những ổ lãng phí và tham nhũng. Chúng đang gánh một tổng số nợ gần 100 tỷ
USD. Ai sẽ trả cái giá kinh khủng của sự ngu dốt này nếu không phải là thế hệ
đang lớn lên? Trung bình mỗi người Việt Nam sẽ phải trả 1000 USD (22 triệu đồng)
vì sự bất tài, tham nhũng và tính vĩ cuồng của chính quyền Nguyễn Tấn Dũng.
Trong kỷ nguyên tri thức này không một quốc gia nào có thể chấp nhận một người
lãnh đạo thiếu hiểu biết như ông Dũng mà không tàn lụi. Ngày nay người ta không
còn có thể nói là đã có các cố vấn vì các vấn đề đã trở thành quá phức tạp và
các dữ kiện thay đổi quá nhanh chóng. Muốn tuyển chọn các cố vấn có thực tài và
sau đó trọng tài giữa các đề nghị phức tạp thì bắt buộc phải có một trình độ
nào đó mà ông Dũng hoàn toàn không có.
Điều
quan trọng cần được đặc biệt lưu ý là Việt Nam vừa để mất một cơ hội bằng vàng
để vươn lên. Năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế
Giới vốn và kỹ thuật nước ngoài đã ồ ạt đổ vào nước ta. Khối lượng đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam
lớn hơn tổng số đầu tư vào tất cả các nước trong vùng. Khối lượng đầu tư nước
ngoài to lớn này có lúc đã tạo ra ảo tưởng, nhưng sau đó sự bất tài, tham nhũng
và những vụ án chính trị thô bạo đã khiến các nhà đầu tư chán ngán bỏ đi. Họ sẽ
chỉ trở lại nếu Việt Nam
thay đổi chế độ chính trị.
Đặc
tính nổi bật và phải lên án nhất của ông Dũng là sự hung bạo đối với những
người dân chủ. Những vụ trước đây bị xử 2 hoặc 3 năm – như thế đã là rất thô
bạo vì các nạn nhân hoàn toàn vô tội - có thể bị xử trên 10 năm trong mấy năm
gần đây sau khi ông Dũng đã thu tóm được phần lớn quyền lực trong tay. Vào năm
2007 Lê Thị Công Nhân bị xử 3 năm tù, Nguyễn Văn Đài 4 năm, nhưng từ năm 2010
trở đi Trần Huỳnh Duy Thức bị xử 16 năm, Điếu Cày 15 năm, Tạ Phong Tần 10 năm,
Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm, Đỗ Thị Minh Hạnh 7 năm. Sự hung bạo đã tăng gấp
ba.
Tóm
lại Nguyễn Tấn Dũng là một người rất thiếu kiến thức và khả năng, rất tham
nhũng, rất tận tình với Trung Cộng và rất hung bạo đối với những người dân chủ
và những người chống chính sách lệ thuộc vào Bắc Kinh. Hơn nữa còn là người đã
gây thiệt hại lớn nhất - về mọi mặt kinh tế, xã hội, đạo đức và môi trường -
cho đất nước từ hơn mười năm nay. Người ta có thể không dám đả kích ông Dũng vì
ông là người đầy quyền lực và rất hung bạo, nhưng ủng hộ và ca tụng ông là
chuyện khác.
Làm
sao không khỏi phiền lòng khi đọc thư ngỏ của nhiều trí thức có uy tín đánh giá
những lời tuyên bố mơ hồ, chung chung, vớ vẩn của ông Dũng "thể hiện
đúng ý chí của nhân dân ta". Ý chí của nhân dân ta đâu phải chỉ có
thế. Hay khi đọc lời thuật rằng "cuộc hội thảo về "thoát
Trung" là do cảm hứng vì những lời tuyên bố của thủ tướng". Cảm
hứng quá hời hợt. Và làm sao có thể thảo luận về "thoát Trung" nếu,
như ban tổ chức yêu cầu, không được phép phê phán một chính quyền coi phụ thuộc
Trung Cộng là điều kiện để tồn tại? Cần nhấn mạnh lệ thuộc Trung Cộng không
phải là yêu cầu của nhân dân Việt Nam mà chỉ là nhu cầu sống còn của
chế độ cộng sản.
Các
trí thức đang ủng hộ ông Dũng và muốn ông Dũng có thế mạnh hơn nữa phải rất
cảnh giác. Họ có thể sắp được mãn nguyện đấy, nhưng đó sẽ chỉ là một thảm kịch
cho đất nước.
Để
kết luận, xin có một lời cải chính nếu những gì vừa viết ở trên có thể khiến
độc giả nghĩ rằng tôi bi quan. Không, tôi không hề bi quan. Trái lại tôi tin
rẳng chúng ta có thể lạc quan. Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử
quan trọng, hạn kỳ dân chủ có thể rất gần.
Dù
muốn hay không Trung Cộng cũng sẽ không thể là một chỗ dựa cho chế độ cộng sản
Việt Nam
nữa. Trung Cộng đã tích lũy quá đủ mâu thuẫn và khó khăn và đang sắp đi vào một
cuộc khủng hoảng rất lớn. Khủng hoảng kinh tế, tài chính và môi trường. Khủng
hoảng mô hình, chính trị, đồng thuận và căn cước. Chính sự thống nhất của Trung
Cộng cũng sẽ không được bảo đảm. Trung Cộng sẽ phải dồn mọi cố gắng để lo cho
chính mình và sẽ không còn sức lực và ý chí để tiếp tục chính sách bành trướng
bá quyền. Dù muốn hay không quan hệ lệ thuộc Việt Trung cũng sẽ phải chấm dứt.
Vấn đề lớn của chúng ta không phải là "thoát Trung" mà là "giải
Cộng" nghĩa là chấm dứt chế độ độc tài đảng trị trong tinh thần hòa giải
và hòa hợp dân tộc.
Ngay
cả nếu kịch bản Nguyễn Tấn Dũng thâu tóm mọi quyền lực xảy ra thì nó cùng lắm
cũng chỉ có thể làm chậm lại đôi chút chứ không thể ngăn chặn tiến trình dân
chủ hóa. Nó sẽ chỉ là một sự chuyển hóa từ độc tài đảng trị sang độc tài cá
nhân, và sự chuyển hóa này cũng chỉ là một chặng đường quen thuộc trong tiến
trình đào thải của các chế độ độc tài.
Chúng
ta còn một lý do quan trọng khác để tin tưởng: một tầng lớp trí thức chính trị,
tầng lớp mà chúng ta chưa bao giờ có trong suốt dòng lịch sử, đang hình thành.
Đó là những trí thức trẻ. Họ hiểu biết về chính trị và tình hình thế giới hơn
hẳn thế hệ cha anh, không ràng buộc với chế độ, không khiếp sợ cũng không trông
đợi gì ở bạo quyền và thẳng thắn chọn lựa dân chủ. Họ đã nắm được chìa khoá của
tương lai, kể cả tương lai rất gần. Sự chuyển giao thế hệ sắp hoàn tất. Đất
nước phải thay đổi vì đã thay da đổi thịt.
Kỷ
nguyên tự do dân chủ sắp mở ra và các thế hệ mai sau sẽ nhận diện những con
người của đất nước hôm nay. Ở thời điểm này quỵ lụy, luồn cúi không chỉ là bệ
rạc mà còn là dại dột.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.