Bài
đọc suy gẫm: Khóc Với Dòng Sông hay “Món Nợ Tuổi Hai Mươi”, tác giả Trần Trung
Đạo với bài phân tách, phản biện, vạch trần sự thật sau khi ông đọc Mãi
mãi tuổi hai mươi, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở
chiến trường Quảng Trị 1972.
Đọc Mãi
mãi tuổi hai mươi, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở
chiến trường Quảng Trị 1972 lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston
một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật ký dày 296 trang, tính cả phần
giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ,
đến trang cuối cùng ở Ngã Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Tôi đã có lần đề
cập đến Mãi mãi tuổi hai mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết
một bài riêng.
Anh
Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ
anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm
nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm.
Gia đình đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Dù
nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng
9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam . Anh viết
cuốn nhật ký từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi
tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đã gửi cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về
cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh
chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tròn một năm trong đời quân ngũ.
Thủy Quân Lục Chiến – VNCH
dựng lại ngọn cờ trên cổ thành Đinh Công Tráng. Trận đánh Quảng-Trị 1972 có thể
nói lớn, hao-tổn nhiều xương máu của cả 2 bên tham chiến và quan trọng nhất
trong chiến tranh Việt Nam.
Tổng Thống Thiệu xuống quỳ
gối cầu nguyện tại Vương Cung Thánh Đường La-Vang ngày 20/9/1972. (Bức
hình Tồng Thống Thiệu quỳ tại thánh đường La Vang đã trở thành 1 poster lịch sử
được phổ biến toàn quốc và cả thế giới).
Các
hệ thống truyền thông của Đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt
bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương
mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành
Quảng Trị”. Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung
đội truyền tin và cũng là người đã mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với
phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ
Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu
AK , bốn băng đạn vẫn còn nguyên
vẹn. Sau khi vượt sông Ba Lòng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo
binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc còn rất tỉnh táo
tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đỡ, không một
viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết.
Anh
đặt tên nhật ký là Chuyện đời nhưng được thay bằng Mãi mãi tuổi
hai mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như Nhật ký Đặng Thùy Trâm,
nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của
đảng đã trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại
Việt Nam.
Anh
Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng vì tập làm
nhà văn nên văn trong nhật ký của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh
hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật ký: “Cơn gió thổi
từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường…
Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng
chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh,
chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2
năm 1972, thay vì ghi lại những gì xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả
rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả.
Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái
nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù
vù…”
Ngoại
trừ tình yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết
này vì tôn trọng tình cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô,
đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lý luận chính trị từ các
bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên
Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một
nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng vì ở tuổi còn nhỏ
sự gần gũi và va chạm với xã hội còn khá ít.
Thần
tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đã tôi thế
đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven!
Ngày
24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24
tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi
trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất
nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc
sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình
thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp.
Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”
Thép
đã tôi thế đấy là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh
trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven… Những
người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!” Anh
hổ thẹn vì chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên
trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân
yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!”.
Ước
mơ của chàng thanh niên Việt Nam
20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không
biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam , đã sống, chiến đấu và hy sinh
cho độc lập tự do của đất nước trong khi còn rất trẻ. Trần Quốc Toản
(1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần Bình Trọng
(1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam
hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết vì tổ quốc
chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp
ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy não kia.
Hình
ảnh những anh hùng một thời liệt oanh: Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, (tranh
vẽ Viettoon) và Nguyễn Thái Học, đảng trưởng VN Quốc Dân Đảng.
Đọc
phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của ký giả Jean
Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam
đã sống và chết trung liệt như thế nào. Ký giả Jean Locquart tường thuật khá
chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi
chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:
Vua Hàm Nghi
“Một
buổi chiều biệt đội của đại uý được tin là sau khi bị đội lính dõng thiện chiến
truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất
Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng
núi cao nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi
cửa chính bị đạp tung ra thì thấy Thiệp đã thức giấc vì tiếng động của vụ tấn
công còn vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở
bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được gì. Thấy chủ soái
thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông
[vua Hàm Nghi], nhưng vì quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục
Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là
một nơi sầm uất và còn đang xao động.”
Tranh
vẽ tả lại cảnh vua Hàm Nghi và Tôn Thất Tiệp bị quân Pháp bắt. Đây là một
bài báo cũ trích từ tuần báo Le Monde Illustré [số 1665 ra ngày 23 tháng 2 năm
1889 tại Paris] nhan đề “Le Roi d’Annam” từ trang 118-120 do ký giả Jean
Locquart tường thuật về việc người Pháp bắt giữ vua Hàm Nghi và đưa ông sang an
trí ở Alger. Tài liệu tuy đơn giản nhưng có đính kèm một số hình ảnh hiếm quí,
được vẽ lại và khắc bản vì thời đó sách báo chưa làm được bản kẽm theo lối hiện
thời. (Tư liệu sưu tầm của người dịch – Nguyễn Duy Chính).
Hai
người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ
mới 18 tuổi, còn nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi
trong hành trình đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói
chuyện gì với nhau. Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một
chàng vệ sĩ còn trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi.
Nhưng có một điều chắc chắn họ đã từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc
Việt Nam
sẽ không còn làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên
chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ
xuống bên thành tàu Biên Hòa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi
nhục giống nhau.
Hình
vẽ vua Hàm Nghi và mộ toàn thể gia đình ngài tại Algeri (phải)
Là
sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc
hẳn anh biết Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai,
rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.
Trong
mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng
gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực
chung quanh Cổ thành Quảng Trị đã trở thành những bãi chiến kinh hồn nhưng
trong nhật ký ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hãnh diện chép lại bản tin của đài
phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền
tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên
địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã phải mở
thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”
Anh
Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu
tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc
chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân
số miền Nam.
Trong
nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công tìm kiếm câu trả lời cho những
thắc mắc của mình vì Đảng đã có sẳn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời
anh. Trong nhật ký ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc
trích ngay câu nói của Lê Duẩn: ”Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho
cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách
mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có tình cảm
riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê
Duẩn vào nhật ký một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau
đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc gì thêm.
Dù
trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không
ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xã hội. Cũng có lúc các đặc
tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố
ác độc, nô dịch của ý thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật ký ngày 27
tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời mình: “Phải hết sức trấn tĩnh,
tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi
chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải
thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và
lung tung. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái
đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung
sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều
xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chửi rủa biết bao lần
những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang
buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như
chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông
cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi
nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.”
“Tôi
muốn khóc, khóc với dòng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót
trên con đường mòn. Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong
manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc
vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những
vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đã
mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh
không chống đỡ nổi, đã gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật ký
ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ
nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền
CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được.
Trong
số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước
ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội. Trong nhật ký ngày 24
tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính mình: “Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã
vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập
– Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo
trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà
bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh
không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…” Anh không thể tự trả lời.
Tuy nhiên, đoạn nhật ký trong cùng ngày đã giải thích lý do một học sinh hạng
A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không
được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lý lịch – Người ta bắt
khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ
– Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm
sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ
chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn
sơ nhất!”
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất |
Anh
Thạc nhiều tài năng đã chết một cách oan uổng chỉ vì như anh viết “vết đen của
quá khứ gia đình đè trĩu hai vai”. Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết
người gì cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan
điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.
Anh
Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết
trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972: “Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có
được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có
người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được
Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế!
Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản
cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không
phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình
lại buồn, buồn tận sâu xa.”
Anh
Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lý lịch” trong nhật ký và điều
đó cho thấy “vết đen” lý lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau
đớn vì lý lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong
xã hội miền Bắc, Đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền
lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên
cao.
Tượng
Sítalin, con quỷ khát máu của thế kỷ bị người dân hạ bệ và chặt đầu bêu giữa
phố.
Chủ
nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xã Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin
tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lý lịch. Chính trị lý lịch (Bio-politics)
không chỉ bảo đảm tính kế tục về giòng giống nhưng còn bảo đảm mụch đích của
chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler, đối
thủ hàng đầu của Stalin, đã từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi
y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống
Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ
lãnh đạo đảng. Stalin phê bình quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler
và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lý lịch dựa trên
giai cấp xã hội.
Anh
Thạc có yêu nước không? Tôi tin là có. Không những anh Thạc mà rất đông tuổi
trẻ miền Bắc tình nguyện lên đường “giải phóng miền Nam” cũng vì lòng yêu nước.
Nhưng tình yêu nước của các anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi
hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Miền Nam mà các anh
được Đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những cánh đồng bát
ngát, những vườn cây sai trái, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa. Người dân miền
Nam mà Đảng vẽ trong nhận thức các anh là những người đang rên siết trong gông
xiềng “Mỹ Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền hòa chỉ
mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một thế kỷ bị thực dân đô
hộ. Cũng trong nhật ký ngày 24 tháng 5, anh Thạc tin rằng Sài Gòn ngày đó là
một “Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù”.
Anh
Thạc hiểu thế nào là tổ quốc? Trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc in ở
phần cuối của nhật ký, anh phân tích tổ quốc: “Được mang ngòi bút của mình phục
vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho
nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tái
hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của
Đảng” hay trong nhật ký ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây
và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người
cộng sản.”
Tổ
quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa” hay “gắn
chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản” như anh viết nằm bên sông
Volga, sông Hoàng Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu. Đoạn văn anh viết được
trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hoá, nghị quyết, bài giảng kinh tế
chính trị ở trường mà anh đã nhập tâm. Không phải chỉ một mình anh Nguyễn Văn
Thạc mà phần lớn nhà văn miền Bắc không ít thì nhiều đều phạm tội đạo văn của
Đảng.
Anh
Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa Tổ quốc và
Đảng, giữa ý thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị.
Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của Đảng không những
có khả năng điều khiển hành động mà còn có thể sai khiến cả nhận thức của anh.
Trong nhật ký ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết: “Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời
ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt nhất trong ta
là khi nào được vào miền Nam ,
vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù”. Anh không biết
“Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng
khiếp thật. Ai dạy anh viết những câu sắc máu vượt qua tuổi tác của anh như
thế, chắc chắn không phải cha mẹ anh nhưng từ bộ máy tuyên truyền của Đảng.
Anh
Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục tiêu hàng đầu của
tuyên truyền tẩy não CS là đào tạo những con người biết tuân phục. Thuần khiết
toàn xã hội qua sách lược trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS.
Đó là lý do tại sao các lãnh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro, Pol Pot đều thích
hôn nhi đồng. Hình ảnh “hiền từ” của họ bên cạnh nhi đồng là hình ảnh phổ biến
nhất tại các nước CS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền
Bắc trong bài thơ ông viết năm 1970:
Bác
Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.
Bộ
máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một cách sáng tạo” từ cả
hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và Trung Cộng nên không lạ gì họ đã lừa
gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc một cách dễ dàng. Đọc lại nhật ký của
anh Nguyễn Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm
1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương tiện tuyên truyền.
Trang
nhật ký cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc viết: ”Kẻ thù không
cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi
nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó,
xa cuốn Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại –
Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những
trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để
trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.”
Anh
Thạc không trở lại. Nhật ký ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là địa chỉ “Ngã ba đồng
lộc”. Hết. Những trang giấy còn lại của cuốn nhật ký cũng không phải là những
dòng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngã xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất
đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đã đổ xuống để giành lại Cổ thành
Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và những vùng đất miền
Nam thân yêu khác.
Anh
Nguyễn Văn Thạc đã chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã chết. Hàng trăm ngàn
cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng phải sống phần đời còn lại trong khó
khăn túng thiếu với số tiền phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là
ba triệu đồng một tháng cho cả gia đình. Tất cả những mất mát và chịu đựng đó
chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đã xác định từ cương lĩnh đảng
CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định trong cương lĩnh 1991: “Mục
đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã
hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghịa” . Sau 39
năm, ngoại trừ những kẻ bị tẩy não, một người có nhận thức và theo dõi thời
cuộc đều đã nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài và “độc
lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bảnh vẽ.
Xương
máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những
biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy
viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng,
lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đã chết và còn
sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà Đảng không
thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.