Trong
khi khái niệm Không - Hải Chiến (ASB) vẫn còn nhiều mâu thuẫn và mơ hồ thì
chiến lược “phong tỏa từ xa” có thể xem là giải pháp tối ưu cho Mỹ để kiềm chế Trung
Cộng, theo một bài phân tích trên trang National Interest (Mỹ) mới
đây.
Trong
những năm gần đây, sự trỗi dậy của Trung Cộng đã làm thay đổi hệ
thống quốc tế và trực tiếp thách thức vai trò truyền thống của Mỹ ở Châu Á -
Thái Bình Dương. Đặc biệt trong thời điểm Mỹ đang phải đối phó với các vấn đề
ngân sách, hai cuộc chiến kéo dài chưa có hồi kết và sự chia rẽ chính trị trong
nước.
Chính
quyền của Tổng thống Barack Obama đã công bố chiến lược “tái cân bằng” để trấn
an các đồng minh và đối tác, đồng thời truyền tải thông điệp Mỹ sẽ không bỏ qua
những lợi ích lâu dài và vai trò cường quốc Thái Bình Dương của mình. Nhưng cho
đến thời điểm hiện nay, Mỹ vẫn chưa có một tuyên bố chiến lược quân sự rõ ràng,
trong đó nêu rõ vai trò của quân đội Mỹ đối với việc duy trì an ninh và thịnh
vượng trong khu vực.
Mặc
dù chiến tranh giữa Trung Cộng và Mỹ, Nhật hay Ấn Độ là rất khó xảy ra, nhưng
cả Washington
và Bắc Kinh đều hiểu rằng sức mạnh đang trỗi dậy và quyền lực thống trị về lâu
dài có thể sẽ xung đột lẫn nhau. Ngoài ra, lịch sử Thế chiến I đã chứng minh
rằng ngay cả các nước có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhau vẫn có thể đi đến
chiến tranh.
Nhưng
kinh nghiệm từ Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô cho thấy xung đột trên thực
tế là một sự lựa chọn, vì thế nó vẫn có thể được ngăn chặn. Trong đó, giá trị
răn đe của các lực lượng vũ trang NATO và một tuyên bố chiến lược quân sự rõ
ràng là yếu tố cực kỳ quan trọng để chặn đứng nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang,
theo National Interest.
Giá
trị răn đe của Không - Hải Chiến?
Được soạn
thảo bởi Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA) của Mỹ hồi năm
2010, khái niệm Không - Hải Chiến (ASB) đã mặc nhiên công nhận rằng trong
trường hợp xảy ra cuộc chiến "khó tin" với Trung Cộng, quân đội Mỹ sẽ
tấn công phủ đầu các hệ thống trinh sát và phòng không hợp nhất của Trung Cộng.
Tiếp theo sau đó là chiến dịch đánh bom hạng nặng nhằm vào các hệ thống tên lửa
đạn đạo và tên lửa đối hạm trên mặt đất của Trung Cộng để "chiếm lĩnh và
duy trì thế chủ động trên không, trên biển và không gian mạng".
Ngay
sau khi công bố, ASB đã gây nhiều tranh cãi. Các nhà phê bình chủ yếu chia
thành hai phe, một bên cho rằng đó là sự khiêu khích không cần thiết, và một
bên xem đó chỉ đơn giản là cái cớ để giành phần lớn ngân sách quốc phòng cho
Hải quân và Không quân trong thời điểm cạnh tranh khốc liệt vì chi tiêu quân sự
bị cắt giảm nghiêm trọng.
Theo nội dung bài phân tích trên trang National Interest thì khái niệm Không – Hải Chiến vừa mang tính khiêu khích lại vừa không hiệu quả.
Đầu tiên là sự khiêu khích nguy hiểm, vì Quân đoàn Pháo binh số 2 của Trung Cộng chẳng những kiểm soát kho tên lửa quy ước mà còn kiểm soát luôn cả kho vũ khí hạt nhân. Một cuộc tấn công trực tiếp nhằm vào lực lượng tên lửa hạt nhân chiến lược của Trung Cộng có thể đẩy cuộc xung đột đến ngưỡng không thể kiểm soát.
Thứ
hai là không khả thi, vì ASB cho rằng chỉ cần sử dụng một số lượng giới hạn các
nguồn lực quân sự của Mỹ là đủ để chống lại sức mạnh của Trung Cộng bao
gồm cả mạng lưới phòng không dày đặc đầy uy lực của nước này. Tài liệu của
CSBA đã tính toán cả những năng lực cần thiết để phát hiện và tiêu diệt các hệ
thống tên lửa cơ động của Trung Cộng.
Đây
được xem là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Cụ thể trong chiến dịch Bão táp
Sa mạc năm 1991, Mỹ đã hoàn toàn thất bại trong nhiệm vụ này.
Chiến đấu cơ Mỹ
Theo
báo cáo điều tra của Không quân Mỹ trong cuộc chiến vùng Vịnh, Không lực Liên
quân mặc dù đã phát hiện 42 vụ phóng tên lửa Scud của Iraq nhưng chỉ
có thể can thiệp kịp thời được 8 vụ. Đó là trong trường hợp người Iraq phóng tên
lửa từ địa hình sa mạc trống trải và quân đồng minh chiếm ưu thế tuyệt đối trên
không với hàng trăm chiến đấu cơ hoạt động tự do.
Với
hàng ngàn phi vụ của không quân, lực lượng mặt đất và hệ thống tình báo quốc
gia, Liên quân đã thất bại trong nhiệm vụ triệt hạ một hệ thống cần ít nhất 30
phút để dựng lên, tiếp nhiên liệu và phóng.
Như
vậy có thể nói nhiệm vụ “xuyên thủng” mạng lưới phòng thủ dày đặc ở duyên
hải Trung Cộng là cực kỳ khó khăn. Đặc biệt các hệ thống phóng tên lửa cơ động
có thể ẩn nấp trong các kho chứa, công trình xây dựng, hang động và đường hầm.
Và chúng cũng có thể được ngụy trang thành xe dân sự khi di chuyển.
Ngoài
ra còn một lý do khác là hệ thống nhiên liệu rắn cần ít thời gian chuẩn bị hơn
so với loại Scud dùng nhiên liệu lỏng. Đó là chưa kể hàng trăm chiến đấu
cơ của Mỹ phải thay phiên túc trực trên không phận tác chiến của Trung Cộng để
tìm kiếm cơ hội. Và ngay cả khi có cơ hội thì phi công Mỹ cũng chỉ có được vài
phút để khai hỏa.
Tuy
nhiên, điều nguy hiểm thật sự của ASB là thiếu giá trị răn đe. Trong khi ASB
phải phụ thuộc vào các hệ thống vệ tinh và không gian mạng, thì Bắc Kinh cũng
tự tin là họ có thể làm suy yếu các hệ thống này, chỉ cần vừa đủ để làm tê liệt
khả năng của ASB. Rõ ràng Trung Cộng đủ khả năng để phát động các cuộc tấn
công “cứng” và “mềm” nhằm vào các vệ tinh và không gian mạng. Ít nhất, các
vụ xâm nhập hệ thống mạng của Mỹ là những minh chứng.
Hơn
nữa, Bắc Kinh cũng có thể tin rằng Mỹ không thể “kham” nổi ASB, hoặc ít nhất,
sẽ không triển khai trong thập niên tới hoặc hơn nữa. Một khái niệm tác chiến
dễ bị tổn thương sẽ ít có giá trị răn đe.
Ngoài
ra ASB còn có điểm yếu về mặt chiến lược là gây cảm giác lo ngại cho các đồng
minh của Mỹ nhiều hơn là cho đối thủ tiềm năng. Đó chính là sự nhầm lẫn giữa
khái niệm của CSBA và ASB của Bộ Quốc phòng Mỹ.
Sau
khi CSBA công bố khái niệm của mình, Lầu Năm Góc đã nhiều lần tuyên bố nó không
đại diện cho chính sách của Mỹ. Cả Tham mưu trưởng Hải quân và Tham mưu trưởng
Không quân đều tuyên bố ASB không phải là chiến lược của Mỹ và không nhằm vào Trung
Cộng.
Tuy
nhiên, Hội đồng Tham mưu Liên quân sau đó đã công bố tài liệu Khái niệm triển
khai các chiến dịch hỗn hợp (JOAC), trong đó đưa ra học thuyết xâm nhập và hoạt
động trong môi trường chống tiếp cận/khu vực cấm (A2/AD) và sử dụng nhiều ý
tưởng từ tài liệu của CSBA. Ngoài ra, Lầu Năm Góc cũng đã thành lập một Văn
phòng ASB.
Hầu
hết công nghệ trong ASB thực tế của Bộ Quốc phòng đều xếp loại tuyệt mật. Ngay
cả các quan chức hàng đầu của Mỹ cũng không thể thảo luận với các đồng minh
thân cận của mình. Vì thế có thể nhiều đồng minh của Mỹ cho rằng ASB sẽ được
thực hiện theo mô hình của CSBA, và có thể bắt đầu ngay lập tức các cuộc tấn
công quy mô lớn trên lãnh thổ Trung Cộng.
Mỹ
có thể yêu cầu các đồng minh cung cấp căn cứ nhưng lại không cho họ biết rõ ý
định của mình. Rõ ràng, các đồng minh của Mỹ có lý do để lo ngại nếu Trung Cộng
xem các cuộc tấn công đó là xuất phát từ lãnh thổ của họ, và sẽ trả đũa.
Chiến
lược “phong tỏa từ xa”
Theo
nhận định của bài phân tích trên trang National Interest thì chiến lược
"phong tỏa từ xa" sẽ hiệu quả và ít tốn kém hơn so với khái niệm
ASB trong một cuộc xung đột thông thường với Trung Cộng.
“Phong
tỏa từ xa” hay “kiểm soát ngoài khơi” có nghĩa là Mỹ và đồng minh sẽ thiết
lập một vòng tròn đồng tâm, trong đó chặn đứng khả năng sử dụng vùng biển
bên trong chuỗi đảo thứ nhất của Trung Cộng, bảo vệ lãnh hải và không phận của
các quốc gia nằm trong chuỗi đảo, và thống trị trên không và không gian biển
bên ngoài.
Chiến
lược này chủ yếu tận dụng lợi thế địa lý của Mỹ và đồng minh trong khu vực đểphong
tỏa các hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu quan trọng của Trung Cộng, qua đó làm
suy yếu nghiêm trọng nền kinh tế của nước này.
Quan
trọng nhất là Mỹ và đồng minh sẽ không phát động các cuộc tấn công nhằm vào Trung
Cộng đại lục, vì các chiến dịch như vậy có thể đẩy cuộc xung đột đến ngưỡng
chiến tranh hạt nhân, và do đó khó chấm dứt hơn. Thay vào đó sẽ thiết lập
một mạng lưới phòng thủ hợp nhất trên biển, trên không và trên mặt đất bên
trong chuỗi đảo thứ nhất để đạt được lợi thế chiến thuật lớn đầu tiên trước lực
lượng Trung Cộng.
Điều
này sẽ phát huy thế mạnh của lực lượng đồng minh, trong đó chủ yếu tấn công
bằng tàu ngầm, thủy lôi, tên lửa hành trình và một số lượng giới hạn phi vụ
không quân bên trong chuỗi đảo thứ nhất. Khu vực này sẽ được tuyên bố là
vùng đặc quyền hàng hải với những cảnh báo rằng tàu Trung Cộng trong khu vực sẽ
bị tịch thu hoặc bị đánh chìm. Bất kỳ tài sản quân sự nào của Trung Cộng bên
ngoài giới hạn 12 hải lý của đại lục đều sẽ bị tấn công.
Chiến
lược này sẽ lật ngược những lợi thế A2/AD của Trung Cộng sang tay lực lượng
đồng minh. Trung Cộng buộc phải tham chiến trên “sân khách” trong khi Mỹ và
đồng minh chiến đấu bên trong vành đai phòng thủ hợp nhất trên lãnh thổ của
mình.
Nếu
Mỹ quản lý tốt các liên minh thì Trung Cộng sẽ bị cô lập trong hầu
hết các kịch bản nói trên.
Các
đảo nhỏ từ Nhật Bản đến Đài Loan đến Luzon và
eo biển Malacca sẽ đóng vai trò là những căn cứ mặt đất cho Không quân và Hải
quân đồng minh tổ chức phòng thủ và lấp đầy các khoảng trống bên trong chuỗi
đảo thứ nhất.
Đặc
biệt, Mỹ không được sử dụng các căn cứ của đồng minh để tấn công các lực lượng Trung
Cộng. Thay vào đó chỉ yêu cầu các quốc gia này cho phép Mỹ đặt hệ thống phòng
thủ của mình để giúp họ bảo vệ lãnh thổ. Ngoài ra, Mỹ còn có thể triển khai lực
lượng hộ tống các đoàn xe chở hàng nhập khẩu và xuất khẩu quan trọng nếu chúng
bị Trung Cộng tấn công.
Việc chặn
đứng nguồn nhập khẩu năng lượng của Trung Cộng sẽ làm suy yếu nhưng không làm
tê liệt nền kinh tế Trung Cộng. Vì nước này có thể đã và đang thực hiện kế
hoạch giảm tác động của một cuộc phong tỏa nguồn năng lượng.
Nhưng xuất
khẩu lại có tầm quan trọng lớn hơn đối với nền kinh tế Trung Cộng. Bắc Kinh có
thể đối phó bằng cách thay đổi các tuyến hải trình, nhưng tất cả đều phải đi
qua chuỗi đảo thứ nhất. Ngay cả khi Trung Cộng quản lý được một phần của chuỗi
đảo, thì Mỹ và đồng minh vẫn có thể sử dụng các “nút cổ chai” xa hơn như eo
biển Malacca, Lombok, Sunda và các tuyến đường phía nam của Úc. Về phía đông,
Mỹ cần kiểm soát kênh đào Panama
và eo biển Magellan, và có thể cả các tuyến hải trình qua ngã Bắc cực.
Biện
pháp đối phó hiệu quả nhất của Trung Cộng để phá vỡ thế cô lập là xây dựng một lực
lượng hải quân có khả năng hoạt động trên khắp thế giới, hoặc sử dụng các tuyến
đường bộ thay thế.
Nhưng
xây dựng năng lực hải quân lại khó thành công trong ngắn hạn và lại quá tốn
kém. Trong thập niên qua, Trung Cộng đã phải đầu tư đến hàng trăm tỷ USD
nhưng vẫn chưa theo kịp các cường quốc hải quân khác.
Còn
việc sử dụng các tuyến đường bộ thì hầu như không khả thi. Cụ thể trong năm
2012, khối lượng xuất khẩu bằng đường biển của Trung Cộng lên đến 9,74 tỷ tấn
hàng hóa. Nếu sử dụng đường bộ thì đồng nghĩa với khoảng 1.000 đoàn tàu mỗi
ngày trên hai tuyến đường sắt liên kết Trung Cộng và châu Âu.
Cùng
phát triển hay bị “cô lập”
Hiện
nay Mỹ đã có đủ năng lực để triển khai chiến lược phong tỏa từ xa bất kỳ
thời điểm nào. Đây là một lợi thế rất lớn nếu so với khái niệm ASB phải dựa vào
các công nghệ quốc phòng bí mật và tốn kém.
Thách
thức an ninh quan trọng nhất đối với Mỹ và các đối tác Thái Bình Dương là
khuyến khích Trung Cộng tiếp tục tăng trưởng và hội nhập sâu hơn với nền kinh
tế thế giới, đồng thời ngăn chặn nước này sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng
trong khu vực.
Thay
vì tấn công “niềm tự hào” của Trung Cộng là mạng lưới phòng không dày đặc và
kho tên lửa loại “khủng”, chiến lược phong tỏa từ xa chỉ đơn giản là dùng
quân sự để gây áp lực kinh tế. Khi phải đối mặt với mối đe dọa sụp đổ kinh tế,
giới lãnh đạo Trung Cộng nhiều khả năng sẽ phải mặc cả.
Chiến
lược này về mặt lý thuyết có thể không dẫn đến một chiến thắng quyết định về
mặt quân sự, nhưng chắc chắn nó sẽ cung cấp một lộ trình thực tế hơn cho hòa
bình và thực dụng hơn để hòa giải.
Ngoài
ra, khi theo đuổi chiến lược này, Washington
có thể đảm bảo với các đồng minh của mình rằng nước Mỹ có đủ ý chí và năng lực
để tham gia một cuộc đối đầu quân sự. Đồng thời thuyết phục Bắc Kinh hiểu rằng
sự đối đầu giữa các cường quốc là một lựa chọn tồi, vì đơn giản là chi phí
chiến tranh quá tốn kém.
Ngược
lại, sự hợp tác giữa các cường quốc có thể mang lại lợi ích tối đa cho Trung
Cộng, Mỹ và phần còn lại của thế giới, theo National Interest.
Nguyên
Giang
Chiến tranh bắt đầu từ trên không gian. |
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.