Những
năm gần đây, sự hiện diện của Trung Cộng ở Việt Nam có hai mặt đặc biệt quan trọng.
Về kinh tế, họ là một đối tác ngày càng lớn của Việt Nam, xét cả về mặt thương
mại và đầu tư, và xu thế nổi bật nhất trong quan hệ kinh tế giữa hai nước là
vấn đề nhập siêu đặc biệt lớn của Việt Nam. Về chính trị, Trung Cộng là một đối
tác đặc biệt của Việt Nam nhưng xu thế nổi bật nhất trong quan hệ ngoại giao
giữa hai nước là chủ trương lấn tới trong việc khẳng định chủ quyền trên thực
tế của Trung Cộng ở Biển Đông.
Hai mặt này tạo ra một cặp đối lập đặc biệt thú vị xét về khía cạnh phân tích
chính sách. Vì Trung Cộng là một đối tác kinh tế quan trọng, Việt Nam
cần Trung Cộng để phát triển (và dĩ nhiên Trung Cộng cũng hưởng lợi đáng kể từ
quan hệ kinh tế này). Thế nhưng chính sách thù địch của Trung Cộng đối với Biển
Đông lại đẩy Việt Nam vào thế không thể coi Trung Cộng là một đối tác đáng tin
cậy, nếu không muốn nói là đối thủ cần phải cảnh giác / đề phòng cao độ. Chính
cặp đối lập này khiến những người Việt có tâm huyết với đất nước không khỏi đau
đáu câu hỏi làm thế nào để thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng.
Không
nên cô lập Trung Cộng
Làm thế nào để giảm lệ thuộc vào Trung Cộng là một câu hỏi hay và quan trọng
không chỉ đối với Việt Nam.
Ngay cả những cường quốc lớn như Hoa Kỳ cũng vẫn phải đặt ra câu hỏi này. Thế
nhưng giả sử tạm gác câu chuyện riêng của Việt Nam sang một bên, và giả sử rằng
phần còn lại của thế giới đang cân nhắc ảnh hưởng của Trung Cộng, thì câu hỏi
đầu tiên có phải là “có nên giảm lệ thuộc vào kinh tế của Trung Cộng và kiềm
chế Trung Cộng về mặt chính trị hay không?”
Câu trả lời có lẽ là không. Vì sao? Thứ nhất, xét về góc độ kinh tế, một quy
luật mang tính bản lề của kinh tế thế giới là thương mại tự do đem lại lợi ích
cho tất cả các bên, mặc dù có những bên được lợi nhiều hơn và có những bên được
lợi ít hơn. Cho dù chê trách kinh tế Trung Cộng như thế nào thì cũng ít ai phủ
nhận rằng sự tăng trưởng kinh tế của Trung Cộng có đóng góp lớn vào sự tăng
trưởng chung của kinh tế thế giới trong nhiều thập kỷ qua, và có ít doanh
nghiệp nào làm ngơ với mối lợi khi làm ăn với Trung Cộng. Đây là sự thật. Cô
lập Trung Cộng về mặt kinh tế không có lợi cho phần còn lại của thế giới, và dĩ
nhiên rất không có lợi cho Trung Cộng.
Về mặt chính trị, việc cô lập Trung Cộng cũng không có lợi. Tư duy cô lập theo
kiểu chiến tranh lạnh sẽ đẩy đất nước này lún sâu vào chủ nghĩa dân tộc cực
đoan và hận thù đối với các nước khác. Kết hợp với sự cô lập về kinh tế, hai
gọng kìm này có thể biến Trung Cộng thành một con thú bị thương và trở nên hung
hăng hơn với phần còn lại của thế giới.
Vì thế, cho tới nay học thuyết ngoại giao của các nước lớn đối với Trung Cộng
vẫn là vừa hợp tác phát triển vừa tìm cách kiềm chế giống như mô hình cây gậy
và củ cà rốt. Về lâu dài là khuyến khích sự phát triển của các xu hướng tiến bộ
trong nội tại đất nước Trung Cộng, giúp cho tầng lớp trung lưu ở đây phát
triển, mở rộng nhận thức, và hòa nhập với thế giới. Dĩ nhiên có nhiều người phê
phán học thuyết này, nhưng ít ra, trong những thập kỷ gần đây, sự trỗi dậy của Trung
Cộng vẫn mang tính hòa bình (dù rằng có vẻ như về ngoại giao họ ngày càng trở
nên cứng rắn và mang màu sắc bá quyền hơn).
Tiền của
họ nhưng chủ quyền của ta
Quay lại câu chuyện của Việt Nam,
Việt Nam
có được lợi từ quan hệ kinh tế với Trung Cộng hay không? Dĩ nhiên là có, và
ngược lại Trung Cộng cũng vậy. Việt Nam có chịu thiệt hại từ đường lối
ngoại giao mang tính bành trướng và “cá lớn nuốt cá bé” của Trung Cộng hay
không? Đương nhiên là Việt Nam
đã và đang phải chịu thiệt hại rất nhiều, nhất là câu chuyện chủ quyền trên
Biển Đông.
Nếu giảm thiểu các quan hệ kinh tế của Việt Nam
với Trung Cộng có giúp gì cho Việt Nam
trong vấn đề khẳng định và xác lập chủ quyền thực tế của Việt Nam trên Biển Đông hay không? Theo
chúng tôi, câu trả lời là không. Trung Cộng đang được lợi từ quan hệ kinh tế
bình thường với Việt Nam.
Nếu giảm quan hệ kinh tế giữa hai nước, lợi ích đến từ quan hệ này với Việt Nam sẽ ít đi, và Trung Cộng sẽ có ít lý do hơn
phải thỏa hiệp với Việt Nam,
và vì vậy chắc chắn sẽ trở nên hiếu chiến hơn nữa. Điều này không có lợi cho cả
Trung Cộng và Việt Nam.
Điều đó có nghĩa gì? Chẳng lẽ Việt Nam phải nhân nhượng chủ quyền để
đổi lấy quan hệ kinh tế với Trung Cộng? Câu trả lời theo chúng tôi cũng là
không nốt. Đứng trên khía cạnh quyền lợi dân tộc, Việt Nam phải có lập
trường kiên quyết về vấn đề chủ quyền. Khi chủ quyền bị xâm hại, Việt Nam phải phản
ứng bằng mọi cách có thể. Dù Việt Nam
chắc chắn không bao giờ đơn phương sử dụng vũ lực trước, Việt Nam phải đáp
trả khi đối phương sử dụng vũ lực. Thế nhưng trước khi bị đẩy vào nước cờ chiến
tranh này, Việt Nam không có
lý do gì phải chấm dứt quan hệ kinh tế với Trung Cộng. Ngược lại, trong thời
bình, thậm chí Việt Nam
nên đẩy mạnh các quan hệ kinh tế này.
Nếu người Trung Cộng đổ tiền vào Việt Nam đầu tư, hãy cứ để họ làm vậy.
Các khoản đầu tư này sẽ tạo ra các tài sản trên đất nước Việt Nam. Nói một
cách bóng bẩy như một chủ doanh nghiệp lớn ở Việt Nam thì “tiền là của họ nhưng chủ
quyền là của chúng ta”. Người Trung Cộng càng có nhiều tài sản ở Việt Nam
thì họ càng chịu thiệt nếu có xung đột giữa hai nước dẫn tới việc tài sản của
họ bị đóng băng hoặc biến mất. Tương tự như vậy, người Trung Cộng càng có lợi
khi giao thương với Việt Nam
thì họ càng không muốn quan hệ này biến mất vì căng thẳng leo thang.
Giảm lệ
thuộc vào Trung Cộng như thế nào
Vậy có nên giảm lệ thuộc kinh tế vào Trung Cộng? Ở đây không phải là câu chuyện
giảm bớt quan hệ kinh tế, mà là thay đổi về chất lượng các quan hệ kinh tế giữa
Việt Nam với Trung Cộng, trong đó có vấn đề cán cân mậu dịch, và tái cân bằng
sức ảnh hưởng tương đối của Trung Cộng ở Việt Nam. Nói cách khác, quan hệ kinh
tế giữa Việt Nam và Trung Cộng nên ngày một tăng lên, nhưng với chất lượng khác
đi, và bên cạnh đó Việt Nam cần đẩy mạnh các quan hệ kinh tế với nước khác để
xét về mặt tương đối, vai trò của Trung Cộng có thể giảm dần.
Về mặt chất lượng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Trung Cộng, vấn đề thâm hụt mậu dịch của Việt Nam đối với Trung Cộng là vấn đề
lớn. Đáng tiếc là việc xóa bỏ thâm hụt mậu dịch với Trung Cộng là việc không dễ
làm, và không thể làm một sớm một chiều. Nó liên quan đến hàng loạt các vấn đề
lớn của nền kinh tế, trong đó có câu chuyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để làm được việc này thì phải tạo dựng các gốc dễ để thay đổi được cơ cấu kinh
tế về dài hạn. Thí dụ các doanh nghiệp Việt Nam luôn phàn nàn rằng đấu thầu với
các doanh nghiệp Trung Cộng luôn bị thua vì họ bỏ thầu rẻ hơn. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam
quay sang chỉ trích rằng nhà thầu Trung Cộng bỏ thầu rẻ nhưng khi làm thì chất
lượng thấp. Điều đó có thể đúng. Nhưng điều quan trọng hơn là liệu doanh nghiệp
Việt Nam
có thể hạ thấp chi phí sản xuất xuống nữa hay không? Đây là một câu hỏi khó,
ngoài câu chuyện trực tiếp của doanh nghiệp, nó còn liên quan đến rất nhiều vấn
đề của hệ thống chính trị, trong đó có câu chuyện tham nhũng, nhũng nhiễu, và
không minh bạch.
Hay một câu chuyện khác là vấn đề xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là tài nguyên, và nhập
vào chủ yếu là nguyên vật liệu, bán thành phẩm, và máy móc. Việt Nam khó có thể
cạnh tranh với Trung Cộng về sản xuất máy móc công nghiệp, đơn giản vì Trung
Cộng có lợi thế kinh tế nhờ quy mô (có nghĩa là có thị trường lớn, vì thế có
thể có quy mô sản xuất lớn, và nhờ đó giá thành hạ). Thế nhưng nếu Việt Nam có thể tạo
được các sản phẩm có trí tuệ cao thì vấn đề lợi thế nhờ quy mô (vốn gắn liên
với sản xuất công nghiệp truyền thống) không còn quá quan trọng nữa. Đáng tiếc
là điều này còn lâu mới thành hiện thực. Và lý do là chúng ta đang có nút thắt
cổ chai về giáo dục trong nhiều thập kỷ nay và cho đến giờ vẫn không có lời
giải ngoài một số chủ trương hay dự án “trên trời” theo kiểu bỏ 35 nghìn tỷ
đồng mua sắm thiết bị giáo dục (để rồi vứt xó) như một đề xuất mới đây của quan
chức Bộ Giáo dục.
Những giải pháp ngắn hạn kiểu như thay đổi chính sách để tạo điều kiện cho
doanh nghiệp Việt Nam
dễ trúng thầu hơn có thể là những viên thuốc giảm đau nhưng không phải là loại
kháng sinh để chữa dứt bệnh. Trái lại nó có thể tạo nên những “hố đen lobby”
mới đem lại lợi ích cho một nhóm thiểu số thạo lobby chính sách, và gây hại cho
nền kinh tế về lâu dài.
Khi thay đổi được nền tảng bên dưới, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển theo hướng hiện đại hơn, doanh nghiệp
Việt Nam
sẽ tự khắc tìm đến các nhà cung cấp chất lượng cao từ các nước khác thay vì từ Trung
Cộng. Khi quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam
và phần còn lại của thế giới tăng nhanh hơn so với quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và Trung Cộng, người Việt sẽ cảm thấy Việt Nam bớt lệ
thuộc vào Trung Cộng hơn. Câu chuyện thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng có vẻ
như nên nhìn theo hướng này thay vì các động tác lobby chính sách mang tính bơm
vá của một số doanh nghiệp và nhóm lợi ích.
Kính chuyển đọc, suy ngẫm và tùy nghi. Tôi không ngạc nhiên về sự kiện thêm giàn khoan này, tôi cũng không ngạc nhiên về việc nhà nước csVN đàn áp biểu tình Chống Trung Cộng cướp nước.
ReplyDeleteLý do: nhà nước csVN CHƯA VÔ HIỆU HÓA được công hàm do Phạm văn Đồng ký ngày 15/9/1958, do đó Trung cộng kéo giàn khoan và "làm trời, làm biển" trong phạm vi 12 hải lý lãnh hải của Trường Sa mà nhà nước CHXHCNVN PHẢI CẮN RĂNG ngậm bồ hòn làm ngọt. Đừng vì cảm tính mà nói rằng tôi thiên về Trung Cộng.
Biện Pháp phải thi hành Trong và Ngoài Nước: Vô hiệu hóa công hàm 19/5/1958 bằng mọi cách Pháp Lý, Biểu tình ôn hòa chống Nhà Nước csVN bán nước và chống Trung cộng xâm lược, nổi dậy, bạo động bằng cách gây Bất Ổn Chính Trị (bãi thị, bãi khóa, bãi công, lãn công...) Bất An (đốt phá, ám sát, thủ tiêu những tên ác ôn côn đồ. ĐỪNG SỢ Trung cộng lấy lý do bảo vệ kiều dân mà đem quân vào vì làm như thế quốc tế sẽ lên án và Trung cộng không dám gây chiến.CÓ THỂ nhà nước csVN cũng Mong Chờ Bạo động để có lý do mà CUỐN GÓI, Phải sẵn sàng có người nối tiếp Hành Chính các cấp ngay.
Kính chuyển để thẩm định.
Kính
TDT