Một trong những địa điểm quan trọng trong Trò chơi Vương quyền (Game of Thrones) là bức tường ở biên giới phía bắc của Bảy Vương quốc.
Dài ba trăm dặm, cao bảy trăm bộ, được xây bằng những khối băng đá, đó là nơi Hội Gác đêm (Night Watch) dàn quân chống lại 'cỏ dại' phía bên kia và cả những lời đồn đại về Bóng Trắng (White Walkers) không chết.
Người xem đến lúc này đã biết được rằng những siêu xác sống đó là có thật, và bức tường thành đã bị xâm phạm, và "mùa đông đang tràn tới".
Trong loạt tiểu thuyết của George RR Martin, điều tạo cảm hứng lịch sử cho ông chính là Bức tường Hadrian ở miền bắc xứ Anh (England). Bức tường đánh dấu biên giới phía bắc của Đế chế La Mã, phân cách vùng đất đã bị chinh phục với những bộ tộc phương bắc chưa bị chế ngự.
Trên thực tế, bức tường thành này khiêm tốn hơn so với những gì được mô tả trong truyện. Trải dài 70 dặm (113km) và hiếm có chỗ nào cao quá 10 bộ (3m), nó được dựng lên trong thời gian khoảng sáu năm, bắt đầu từ năm 122.
Cứ cách mỗi dặm lại có một lâu đài được xây lên, Tường thành Hadrian ghi dấu ấn quyền lực đế quốc và nhằm "phân cách người La Mã với những tộc người man rợ," như nội dung được ghi chép trong một thư tịch cổ.
Từ lâu nay, đó thường là chức năng của các bức tường thành. Được tuyên bố là các cấu trúc phòng thủ và có chức năng như các rào chắn bất khả xâm nhập, nhưng trên thực tế chúng thường nhằm phục vụ cho các mục tiêu mang tính xã hội, tâm lý và biểu tượng nhiều hơn.
Chúng giúp định hình nền văn hóa.
Bức tường thành Hadrian được dựng từ thời La Mã ở phía bắc xứ Anh, nhằm ngăn sự xâm lấn của các bộ tộc phía bắc
Bức tường thành trong Trò chơi Vương quyền có thể là một rào chắn tuyệt vời, nhưng đây mới là điều đang thống trị trong cuộc tranh luận đương đại: Cam kết của ông Trump trong chiến dịch vận động tranh cử 2016, "xây dựng một bức tường và buộc Mexico phải trả phí tổn xây dựng".
Tuy có những người cho rằng các thiết kế được đưa ra cho bức tường biên giới của ông Trump đã được công bố, nhưng hiện vẫn chưa rõ dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ này sẽ được lấy ngân khoản từ đâu và sẽ quản lý ra sao.
Tất nhiên, đã từng có tiền lệ trước khi có Bức tường của ông Trump.
Vạn lý Trường thành ở Trung Cộng được khởi công từ năm 481 trước Công nguyên, được dùng để đánh dấu sự phân chia giữa thế giới văn minh và các bộ tộc mông muội phía bên kia bức tường.
Dài trên 4.000 dặm, rải rác có trạm gác và thỉnh thoảng có chỗ chỉ to hơn công sự xây cao lên một chút, nó không mấy tác dụng trong vai trò làm rào chắn hoặc hệ thống phòng thủ, mà giữ vai trò là một biểu tượng định hình tính dân tộc của người Trung Cộng, từ đó đặt tiền đề cho hàng trăm năm loại trừ sắc tộc và văn hóa.
Đó là lý do khiến Đảng Cộng sản kể từ 1949 đã tiếp tục bổ sung vào các đoạn tường thành và bảo tồn các đoạn tường lịch sử: bởi nó định hình ra người dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Người Hy Lạp cũng có những thứ tương tự. Họ gọi những thứ nằm bên ngoài bức tường bao quanh thành phố là mọi rợ. Người Hy Lạp còn có một nỗi sợ ghê gớm hơn khi họ rời khỏi những nơi quen thuộc. Vượt ra khỏi thế giới đã biết đến, Địa Trung Hải, là Anthropophagi, tức những kẻ trông như ác thú luôn thèm khát thịt người.
Nỗi khiếp sợ này còn đeo đuổi vào cả trong trí tưởng tượng của kiến trúc Gothic đương đại: bên ngoài những bước tường thành hay rào chắn là thấp thoáng đủ những thời khắc tận thế, từng đám xác sống khổng lồ hung hãn.
Phim mới của Doug Liman, Bức Tường, nói về hai người lính Mỹ phải ẩn sau bức tường khi bị một tay súng bắn tỉa nhắm bắn tại Iraq
Trong phim The Walking Dead, toàn bộ nền văn minh bên ngoài những bức tường đều bị bác bỏ. Những bức tường thành luôn là cách che chở cho con người, đặt ranh giới phân chia giữa con người và những thứ phi nhân.
Chia rẽ và chinh phục
Thời Chiến tranh Lạnh, con người ta bị ám ảnh bởi việc Đông Đức xây dựng Bức tường Berlin, bắt đầu từ tháng Tám 1961. Bức tường được dựng lên nhằm chặn làn sóng di dân ồ ạt từ Đông Đức sang phía Tây, và tiếp tục được gia cố, xây dựng trong suốt ba thập niên. Hàng trăm người đã thiệt mạng khi cố tìm cách vượt qua công trình kéo dài 96 dặm chia cách Tây Berlin, và khu vực đường biên đã trở thành bối cảnh dựng phim lý tưởng cho các bộ phim tình báo gay cấn, từ The Spy Who Came in from the Cold (Điệp viên đến từ Giá lạnh) của John Le Carre (1965) cho tới Cây cầu Điệp viên (Bridge of Spies) của Steven Spielberg (2015).
Bức tường Berlin không chỉ là chuyện địa chính trị, mà còn là một biểu tượng thể hiện tâm trạng chán ghét và tự phân rẽ, như ban nhạc Pink Floyd's từng thể hiện trong album The Wall (Bức Tường) hồi 1979.
Tuy nhiên, những hỏa tiễn xuyên lục địa, những cuộc viễn liên toàn cầu được kết nối qua vệ tinh và sự di chuyển bằng đường hàng không ồ ạt, đã khiến cho Bức tường Berlin ngày càng trở nên lố bịch trong một thế giới 'không biên giới'. Nó trở thành một biểu tượng thê thảm minh họa cho sự áp bức và kiểm soát mà Đông Đức áp lên công dân nước mình.
Nhiều tổng thống Hoa Kỳ đã dùng bức tường này làm hậu cảnh khi đưa ra các tuyên bố về ý thức hệ tự do phương Tây, từ thời John F Kennedy trở đi.
Khi Tổng thống Ronald Reagan phát biểu tại Berlin hồi 1987, ông kêu gọi "hãy phá bỏ bức tường này" và lúc đó đã là thời khắc quan trọng trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh.
Bức tường Berlin đã bị kéo đổ hồi năm 1989
Hai năm sau, vào 11/1989, đường biên giới được tuyên bố mở ra, và người dân Berlin bắt đầu phá bỏ bức tường vốn đã chia cắt thành phố trong suốt 28 năm.
Trong một thời gian, hồi thập niên 1990, chúng ta đã tin tưởng vào lời hùng biện rằng rồi sẽ có một thế giới toàn cầu hóa, nơi mà tiền tệ, hàng hóa và con người sẽ được tự do dịch chuyển.
Đây là điều mà nhà xã hội học Manuel Castells ca tụng là "space of flows" (tạm dịch "tự do dịch chuyển").
Thế nhưng bước sang thiên niên kỷ mới, đã lại xuất hiện những dự án xây dựng tường cách ngăn trên thế giới, một cách phản ứng trực tiếp trước tâm lý lo lắng trước tình trạng mở cửa đường biên.
Những lời hùng biện về chủ nghĩa quốc tế và việc được tự do di chuyển qua biên giới đã bị khoanh lại bằng việc liên tục có những rào chắn thực sự được xây lên.
Israel bắt đầu xây "rào chắn phân cách" vào năm 2000 - các cơ quan chính phủ đề xuất và xây dựng rào chắn (barrier), tuy họ tránh dùng chữ "bức tường" (wall).
Việc dựng rào chắn nhằm đối phó với làn sóng bạo lực của người Palestine ở Tây Ngạn, phong trào ném đá Intifada thứ hai, và nhằm chia tách người dân Palestine ra khỏi khu vực dành riêng cho Israel.
Ước tính kéo dài 440 dặm (708 km) sau khi hoàn tất, dự án này đã liên tục vấp phải thách thức trong vấn đề luật pháp quốc tế.
Bộ phim tài liệu Wall (Bức tường - 2004) của Simone Bitton kết thúc với cảnh hàng ngày, người ta trèo lên, vượt qua bức tường, gợi đến sự phản kháng.
Album Bức Tường (The Wall) của ban nhạc Pink Floyd khai thác ý tưởng thể hiện sự chán chường và đứt đoạn cảm xúc qua hình ảnh mang tính biểu tượng là bức tường
Nghiệt ngã hơn, phim World War Z (Chiến tranh Thế giới lần Z - 2013) lúc bắt đầu, người xem như thoáng trông thấy cảnh rào chắn của Israel với các chốt kiểm soát quân sự, được phản ánh qua cảnh người ta gấp gáp đối phó với một vụ bùng phát virus xác sống. Nhưng bức tường đó đã bị đám xác sống vượt qua - cũng giống như những gì đã xảy ra trong Game of Thrones.
Bức vẽ trên tường bê tông
Tất nhiên, giống như việc có tác dụng làm rào chắn, các bức tường cũng được dùng làm tấm toan vẽ. Những hình ảnh graffiti trên các bức tường ở Berlin và ở khu Tây Ngạn đã trở nên nổi tiếng, như lời phản kháng trước sự bị phân chia.
Một trong những nghệ sỹ nổi tiếng nhất trong thời đại chúng ta, Banksy, đã tạo dựng nên sự nghiệp từ việc vẽ những tác phẩm hội họa đậm màu sắc bất phục lên những bức tường.
Vài năm trước khi ông Trump lên làm tổng thống Hoa Kỳ, cây bút chuyên viết các tác phẩm khoa học giả tưởng là Tom Disch đã hình dung ra một bức tường khổng lồ được xây dọc biên giới Mỹ-Canada và trở thành bảo tàng nghệ thuật ngoài trời khổng lồ.
Hồi năm 2004, Ấn Độ cuối cùng đã hoàn thành hàng rào điện kéo dài 340 dặm dọc theo Đường Kiểm soát ở khu vực có tranh chấp, nhằm phân chia lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan.
Cuộc khủng hoảng người tỵ nạn kể từ sau khi Libya và Syria rơi vào nội chiến đã dẫn tới việc xây dựng những hàng rào để bảo vệ biên giới châu Âu, từ hàng rào Tây Ban Nha ở quanh cảng Melilla tại Morocco cho tới những hàng rào đường biên khác nhau mà chính phủ Hungaria đã dựng lên trong thời gian 2015 và 2016.
Sự phản ứng của nhưng người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đối với 'Âu châu không biên giới' đã để dấu ấn lên những cuộc bầu cử gần đây trên châu lục này. Bất chấp việc đã có những bức tường được dựng lên, hàng triệu người tỵ nạn vẫn vượt qua được thông qua hành trình đầy gian nan, nguy hiểm.
Các nhân viên phòng chống ma túy của Hoa Kỳ nai nịt như thể vào vùng chiến sự khi vượt biên giới vào vùng Ciudad Juarez của Meico
Hãy nhìn lại lịch sử Bức tường Trump: đây là bức tường giữa Mỹ và Mexico, lúc ban đầu được dựng lên theo một thỏa thuận ký hồi 1848, và chỉ là những đống đá chồng lên nhau và một số ít các ngọn tháp chồng lên từ đá cẩm thạch. Hàng rào thực sự đầu tiên được dựng lên là hồi 1945, nhằm kiểm soát lượng lớn người qua lại biên giới giữa Tijuana và Ciudad Juarez.
Việc xây dựng đường biên giới trên thực địa được mở rộng, triển khai trên quy mô lớn sau khi Hoa Kỳ thành lập Bộ Nội an và đưa ra 'Sáng kiến Biên giới An toàn' hồi 2005. Kể từ đó, hơn 650 dặm hàng rào đã được dựng lên dưới thời các tổng thống cả của phe Cộng hòa lẫn phe Dân chủ.
Những điều trên cho thấy quyền lực bí hiểm của những Bóng Trắng đến từ bên ngoài bức tường thành, vốn đem lại bệnh dịch hạch và gieo rắc chết chóc cho Bảy Vương quốc trong Trò chơi Vương quyền, khó có thể được coi là tương xứng với cơn điên cuồng xây tường của con người đương thời.
Tất nhiên, những bước tường chỉ là những rào cản thực tế vô dụng, ngày càng trở nên lỗi thời trước các công nghệ mới như máy bay không người lái. Thế nhưng chúng rõ ràng là có những giá trị về mặt tinh thần, cho thấy sự phân ranh giới về một giấc mơ trong sáng, mơ giữ cho chúng ta tránh được khỏi những mối đe dọa về bản ngã.
Roger Luckhurst
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.