Hôm
qua mới xem vài ba bài báo, thấy phản ánh học sinh lớp 12 đang háo hức trước kỳ
thi đại học sắp tới vì đây là lần đầu các em làm “chuột bạch” với mô hình thi
“2-trong-1” đầy tranh cãi. Tôi chẳng biết báo chí phản ánh đúng bao nhiêu %, và
những tấm ảnh các em học sinh 12 đang cười toe toét có phải đúng là hình các em
đang vui vì… sắp thi phương pháp mới. Nhưng bản thân tôi, vốn cũng là thế hệ
trải qua đủ tất cả các kỳ thi với muôn vàn cảm xúc: vui khi qua, buồn khi
vướng, và sợ hãi khi phải đối mặt. Vài đứa cháu của tôi dù mới bước sang tuổi
lớp 1, lớp 2 cũng đã phải thức khuya dậy sớm học bài, làm bài cần cù chăm chỉ
một cách khuôn phép nếu muốn có chút thành tích và được xướng tên trước cột cờ
để nhận những phần thưởng cuối năm. Vậy nên khi thấy báo chí bảo “các em hào
hứng trước mô hình thi mới”, tôi chắc mẫm một từ “dối!”. Chẳng em nào, ở cái
tuổi ăn được ngủ được, lại vui trước những kỳ thi với óc não căng như dây đàn
tại Việt Nam .
Có chăng thì cũng chỉ một vài em bị nhồi nhét đáng thương đến mức trở thành
“mọt sách”.
Phải
thừa nhận người Việt học nhiều thật, “nhiều” cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Còn nhớ ngày tôi học lớp hai, lớp ba (tức 7-8 tuổi), tất cả bảng cửu chương
phải thuộc lòng vanh vách, ngay cả khi trong đầu tôi chưa hề có một ý niệm nào
về câu hỏi “tại sao tôi phải học bảng cửu chương”. Tôi và những đứa bạn cùng
trang lứa chỉ biết học vì “thầy cô yêu cầu học”, nếu không muốn nhận quả trứng
gà tròn trĩnh (điểm 0) hay khá hơn là một con ngỗng quay (điểm 2) ở các buổi
kiểm tra miệng bất thình lình. Thậm chí nếu ăn quá nhiều “trứng gà” hay “ngỗng
quay”, chúng tôi sẽ phải chuyển đổi thành “roi, vọt” và nằm úp lên bàn để nhỏ trưởng lớp được cô chủ nhiệm ủy quyền đánh thật mạnh vào mông.
Rồi
những ngày mệt nhoài vì phải vác chiếc cặp nặng trịch toàn là sách và tập. Có
môn đến hai, ba quyển sách các loại, chưa tính thêm tập viết lý thuyết lẫn bài
tập về nhà. Bản thân chúng tôi đúng nghĩa “cần lao” và miệt mài nuốt cho hết mớ
chữ nghĩa mà đôi khi đi vào cả giấc mơ chưa tròn tuổi của mình. Và khi học-học
nữa-học mãi vẫn chưa hết mớ kiến thức thầy cô cố nhồi nhét vào đầu, chúng tôi
bắt đầu tìm đến thánh thần và sự ma mị. Nào là ra nghĩa địa bứt “lá thuộc bài”
kẹp vào từng trang vở; nào là đi bắt xăm, bắt quả, bói bài… đủ các kiểu các thể
loại, chỉ mong có thể an tâm ngủ ngon để sớm tinh mơ còn đủ sức mò dậy, tạt
từng gáo nước lạnh buốt vào mặt để trấn tỉnh và tiếp tục học vội học vàng vài
ba dòng mong sao “trúng tủ” trước khi chạy ù đến trường thi với bộ đồ xộc xệch
chưa kịp ủi tinh tươm.
Thời
phổ thông trung học là những tháng ngày kinh khủng nhất khi cùng lúc phải ngốn
ngấu nghiến hơn chục môn học mà mãi khi tốt nghiệp đại học, tôi cũng chẳng biết
thời ấy chúng tôi phải học những môn ấy để làm gì. Chúng tôi phải ngồi hàng giờ
để học những bài tập hóa tìm chất trong lọ “mất nhãn”; trong khi thực tế tại
bất kỳ nơi nào, các lọ mất nhãn đều bị bỏ đi vì tính chất an toàn.
Chúng tôi
được học vài tháng ròng và vật vã vì con lắc đơn; trong khi thế giới hiện nay
gần như chẳng nơi nào còn ứng dụng. Chúng tôi miệt mài học từ vựng, viết câu,
ngữ pháp ngoại ngữ trong suốt 7 năm trời, và rồi mọi thứ vẫn zero khi một câu
sinh ngữ bẻ đôi không đứa nào nghe được, càng không nói được rõ ràng; trong khi
trẻ con bản xứ thì được học ngược lại hoàn toàn: phải tập nghe, học nói, rồi
đọc, và cuối cùng mới tới giai đoạn viết. Đó là chưa kể các hệ phương trình,
bài tích phân, lượng giác… toàn trên trời, có khi thầy tôi – một người cần mẫn
và chịu khó – đứng trầm ngâm cả giờ để rồi hẹn lớp bài giải hôm sau. Mãi về sau
mới biết, nhiều thứ chúng tôi học từ phổ thông chính là bài học mà các bạn Tây
được tiếp cận khi vào đại học.
Đó
là lý do tôi không bao giờ ngạc nhiên khi nghe ở bảng xếp hạng toán học và khoa
học, Việt Nam
luôn nằm trong tốp đầu. Những em học sinh Việt Nam được trau dồi không phải
phương pháp mà là kiến thức (mênh mông và vô hạn); được yêu cầu học chứ không
phải tò mò tìm hiểu; phải ngước lên (bục giảng) tiếp thu và xem mọi thứ thầy cô
nói ra đều là chân lý, chứ không phải “nhìn xuống” (bảng đen) nơi thầy cô
truyền thụ niềm đam mê, cảm hứng với một vài gợi ý căn bản để các em tự sức
phát huy khả năng như ở phương Tây. Ngay từ tư thế ngồi học các em đã bị rơi
vào thế yếu, thế thụ động, thế chịu đựng và chấp nhận những thứ mà thầy cô tự
cho là chân lý và yêu cầu các em phải làm theo.
Với
các em “gà chọi”, vốn có khả năng nhớ tốt và phản ứng nhanh, các em được đào
tạo trở thành “gà chọi” chuyện nghiệp trong các cuộc đấu toán học, khoa học
trong nước và quốc tế. Môi trường “luyện thi” khắc nghiệt được tung ra; các em
phải học để đấu tranh vì điểm, vì sĩ diện gia đình và trường lớp; vì thứ mà
người ta bảo rằng là màu cờ sắc áo; là danh dự… vốn là những thứ quá sức với
các em, và chẳng bao giờ các em nắm bắt được hết. Để rồi các em lao vào học
điên cuồng cho dù trong đầu mình chẳng có một ý niệm nào về tương lai và niềm
đam mê thực sự bùng cháy của bản thân.
Sự
tôi rèn một cách “phát xít” và máy móc khiến đa phần học sinh đều rơi vào thế
bí. Em nào không có khả năng nhồi nhét kiến thức thì bị thầy cô và bạn bè khinh
khi, hoặc giảm sự quan tâm và ưu tiên; trong khi các em có năng lực cũng chỉ
biết làm toán, làm toán và làm toán. Thế giới luôn vận động và mọi thứ ngoài
kia liên tục thay đổi. “Sách vở là thứ được đúc kết từ thực tế, nhưng không bao
giờ bắt kịp được mọi thứ đang diễn ra”. Nhưng với cách giáo dục nặng về sách vở
và hạn chế tính thực tiễn, bản chất sáng tạo và sự đột phá về tư duy của học
sinh đã bị “bẽ gãy”, thậm chí là hủy hoại nghiêm trọng.
Nhiều chuyên gia sư
phạm hàng đầu thế giới đã không hề tỏ ra nao núng khi bảng xếp hạng thành tích
toán học và khoa học của học sinh dưới 15 tuổi ở Việt Nam cao hơn
nhiều so với họ. Trái lại, họ chỉ ra rằng chương trình dạy khắc nghiệt chính là
“liều thuốc độc” khiến Việt Nam tuy hạng cao nhưng chẳng có một giải thưởng
Nobel khoa học nào. Ngoại trừ giải thưởng toán học danh giá của GS Ngô Bảo
Châu, vốn chẳng phải hưởng thụ toàn diện giáo dục Việt Nam, thì đến nay các
giải thưởng mang tính tầm cỡ thế giới có sức ảnh hưởng đến nhân loại vẫn chỉ là
những niềm mơ ước xa xỉ với một quốc gia 90 triệu dân có truyền thống hiếu học.
Hãy
nhìn cái cách mà trẻ em phương tây được đến các viện bảo tàng để học lịch sử;
vào rừng để học môi trường; ra đường để học giao thông; xuống sông học về thủy
lợi; ra chợ học về bán buôn… để thấy rằng với giáo dục, triết lý quan trọng bậc
nhất chính là phương pháp chứ không phải kiến thức, nhất là khi trong thời đại
toàn cầu hóa Internet, kiến thức chỉ là những cái click chuột chưa đầy một
giây. Trẻ em Việt được dạy cách giải bài toán A; trong khi phương Tây dạy học
trò cách giải dạng toán A. Việt Nam dạy trẻ “món hàng này giá bao nhiêu?”,
trong khi phương Tây dạy chúng cách xác định “giá trị” của mọi thứ trên đời, để
chúng biết đâu là cái cốt lõi của bất kỳ một món hàng nào mà chúng thấy.
Phương
Tây không bao giờ bỏ trẻ em gặp khó khăn trong chuyện học, trong khi chúng ta
chỉ tập trung bồi dưỡng có định hướng từ trên xuống, mà vô hình chung là tạo áp
lực cho các em học sinh vốn có tiềm năng. Để rồi kết quả là khi người ta liên
tục cho ra đời nhiều ý tưởng và các bằng sáng chế, thì người Việt vẫn chỉ cặm
cụi làm người thợ làm công; đã vậy còn mắc chứng ganh tỵ nhau khi thấy người
khác lao động có chút thành quả. Suy cho cùng cũng xuất phát từ nền giáo dục
trọng thành tích, danh dự, sĩ diện và tên tuổi vốn chẳng thể nuôi được những
cái đầu có khả năng bứt phá phi thường.
Cao
Huy Huân
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.