Nhân
phát biểu của ông phó giáo sư tiến sĩ Vũ Quang Hiển (không có ngược đãi quân cán chính miền
Nam sau 1975) tôi muốn giới thiệu một bài mang tính hồi tưởng của BS
Võ Tam Anh viết về thời gian trong các trại tù cải tạo. Đây chỉ là 1 trong số
hàng ngàn câu chuyện. Câu chuyện, nói theo ngôn ngữ của Karl Popper, là một
minh chứng cho thấy ông Vũ Quang Hiển đã phạm phải một sai lầm lớn. Ông cũng đã
xúc phạm hàng triệu người Việt Nam .
Phát
biểu của ông Vũ Quang Hiển làm tôi nhớ đến sử gia người Anh tên là David
Irving. Ông Irving nổi tiếng với danh xưng “Holocaust denier” vì ông phủ nhận
rằng Holocaust là chuyện không có thật, rằng mấy lò gas là do người Do Thái
phịa ra. Ông Irving nổi tiếng đến nỗi bị Chính phủ Úc cấm không cho vào Úc, và
sau này thì bị toà án Áo phạt tù 3 năm về tội xuyên tạc sự thật lịch sử. Kể ra
thì ông Vũ Quang Hiển còn may mắn chán vì ông không chịu sự chi phối của luật
pháp nước ngoài.
Không
biết có khi nào ông Vũ Quang Hiển tự hỏi tại sao các lãnh đạo cao cấp của VN ra
nước ngoài là bị biểu tình dữ dội? Suốt 40 năm qua, biểu tình vẫn xảy ra mỗi
khi các vị ấy đến thăm các nước phương Tây. Một trong những lý do là những
người mà chính quyền hiện hành từng bỏ tù họ và hành hạ họ qua nhiều năm trong
các trại “cải tạo”. Cho dù họ đã chết, nhưng con cháu họ thì không quên. Chính
vì thế mà họ biểu tình. Tôi không thích việc làm như thế, nhưng tôi hoàn toàn
hiểu và thông cảm cho sự tức giận của họ.
Người
phương Tây có thành ngữ “What goes around comes around”. Câu này có thể hiểu là
“Cuộc đời có vay thì có trả “. Những gì mà chính quyền ngược đãi những tù nhân
cải tạo thì bây giờ chính quyền phải nhận lãnh hậu quả. Tưởng là ông Vũ Quang
Hiển thừa biết câu đó chứ.
*****
LƯƠNG
Y NHƯ… TỪ MẪU
Sau
ngày 30 tháng Tư năm 1975, nhân dân Miền Nam Việt Nam lâm vào một tâm trạng
hoang mang tột độ, mịt mù trước tương lai, lo âu cho cuộc sống hằng ngày. Tại
Bệnh viện Vĩnh Long, mặc dầu tôi đã không còn trách nhiệm gì nữa mà anh chị em
nhân viên cứ bám lấy tôi để dò hỏi, làm như tôi có phép mầu nhiệm gì để giải
tỏa được những thắc mắc đang quay cuồng trong trí óc mọi người.
Những
người thay thế tôi cố sửa đổi bộ mặt của bệnh viện bằng cách cho sơn vẽ khắp
nơi những khẩu hiệu cách mạng mới, mà đắc ý nhất là câu “Lương Y như Từ Mẫu”,
không biết lượm được ở đâu, mà cứ nhan nhản khắp nơi, từ ngoài cổng, cầu thang,
hành lang cho đến phòng thay áo, nhà tắm…như cố nhét vào đầu óc mọi người để
tranh thủ cái độc quyền đạo đức nhân từ mà chỉ riêng người thầy thuốc cách mạng
mới xứng đáng với hai chữ lương y.
Một
hôm, tôi bước vào phòng trực y tá để thăm hỏi, thì thấy anh chị em đang quây
quần tán gẫu, lẽ tất nhiên cũng không ngoài đề tài số một là gạo cơm lương bổng
sẽ ra sao. Bên cạnh là bàn thờ tổ quốc, một thứ trang trí mới trong tất cả các
phòng, bất luận là chuyên môn hay hành chánh, bên trên vẫn là cái câu nhân từ
bất hủ đó. Một nữ hộ sinh chỉ vào khẩu hiệu, ngao ngán bảo với tôi: ” Ông Thầy
biết không, chúng em bị một phen mừng hụt vì nó đấy “, rồi lấm lét nhìn ra cửa,
nói tiếp: “Chiều nay khi mấy chú cán bộ vào kẻ khẩu hiệu, khi ngang tới chữ
“Lương y như…” chúng em mừng quá reo lên vì cứ tưởng là lương y như tháng
trước, không ngờ nó lại là như…từ mẫu!”.
Thế
rồi vì không hiểu duyên nợ nghề nghiệp gắn liền hay đạo đức cách mạng chu đáo
lo cho chúng tôi mà các bậc từ mẫu đó, tuy khoác áo lương y nhưng lại cư xử
theo tư cách một… cai ngục, đã đeo đẳng mãi chúng tôi trên suốt đoạn đường dài
“cải tạo”.
Sau
những năm dài da diết trong rừng sâu Sơn La, trên biên giới Hoa Việt, cuối
cùng, vì có chiến tranh với Trung cộng, chúng tôi được áp tải về một trại giam
gần Hà Nội, một trại giam “kiểu mẫu”, một thứ “cây kiểng” để chế độ trình diễn
chính sách khoan hồng nhân đạo với thế giới bên ngoài. Trong cái tủ kính bày
hàng đó, lẽ tất nhiên săn sóc sức khỏe cho tù là “ưu tư hàng đầu” của Ban Giám
thị và vị lương y phải được đóng vai kép chính.
Trại
Nam Hà, cách Chùa Hương không xa, được thời cuộc nâng lên hàng danh lam thắng
cảnh để cho quan khách ngoại quốc lui tới viếng thăm, từ Hội Ân Xá Quốc Tế, báo
chí Tây phương, các nghiệp đoàn cộng sản Pháp cho tới cả “đồng chí” Chandra Chủ
tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới v.v… Từ trại nhìn ra, cảnh đẹp như tranh, xa xa
những núi đá vôi nho nhỏ, đủ hình đủ dạng, nổi lên trên một mặt nước phẳng lì
thơ mộng trông như Vịnh Hạ Long. Cái mặt nước phẳng lì hiền hòa đó, không ai
ngờ là một thứ hàng rào thiên nhiên vô cùng độc hại, là những đầm sình lầy cát
lở đã nuốt sống biết bao là tù nhân trốn trại.
Bệnh
xá nằm dưới chân đồi, trước sân có hòn non bộ với Lã Vọng ngồi câu, bên dưới là
bể cá vàng lừ đừ lội nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thờ ơ chán ngán, trên mái hiên
treo đầy lồng chim đủ màu đủ loại, suốt ngày hót líu lo như để mỉa mai tâm trạng
héo hắt tơi bời của chúng tôi.
Tất
cả cái thú xa xỉ trưởng giả đó đã được đánh đổi bằng xương thịt của chúng tôi
qua sự cắt xén tiền thực phẩm vốn đã vô cùng đói rách. Cá thia vàng, chim hoàng
yến, chim họa mi tung tăng bay nhảy, đã được mấy ngàn cặp mắt tù sâu hoắc và
phờ phạt vì thiếu ăn, thèm thuồng nhìn qua giá trị của mấy chục gờ ram prôtêin
mà vô cùng tiếc rẻ, vì nó đang nằm trong tầm tay mà lại ngoài tầm… bao tử. Cây
kiểng trước sân được chăm sóc tỉ mỉ mà mỗi lần gọt tỉa là một dịp cho chúng tôi
lượm lá rụng nấu thành một bữa rau để dành giựt nhau, tuy vừa dai vừa đắng
nhưng màu đỏ của nước lá dền cũng cho chúng tôi ảo tưởng bổ dưỡng của chất sinh
tố B12. Cái quang cảnh thần tiên của bệnh xá đó đã được lên hình trên báo Liên
Xô và được tô điểm đến độ mỗi lần thuyết trình cho phái đoàn ngoại quốc, viên
giám đốc trại cũng không bao giờ quên luyện giọng một cách thành thực: “Tôi chỉ
mơ ước được sống như những trại viên (ý nói từ chúng tôi)”. Tiếc thay!!!
Đến
đây tôi mới hiểu tại sao anh em tù Nam Hà gọi cán bộ bằng “Chèo” (phường chèo),
trắng trợn đến độ ban giám thị phải gọi lên chỉnh: “Cán bộ thì có nam có nữ, cớ
sao các anh lại gọi bằng “chèo đực, chèo cái”, nghe chẳng “văn hóa” tý nào”.
Trại
có một mật độ chuyên viên y khoa cao nhất thế giới, trong số hai ngàn người
(tù) thì có đến hai mươi bác sĩ (cũng tù). Tất cả đều phải lao động khổ sai như
nhau, đập đá, đốn củi, ngâm mình dưới nước để kéo cày thay trâu…, trong khi
trên bờ đê, cán bộ cầm cái roi dài quất qua quất lại khiến cho tù ở dưới ruộng không
hiểu là mình đang còn ở kiếp người hay đã đầu thay qua kiếp khác làm trâu bò.
Phần
điều trị được nhường lại cho những người ngoài ngành y tế được lựa chọn theo
tiêu chuẩn hạnh kiểm và mức độ hợp tác. Tuy nhiên, bất đắc dĩ bệnh xá phải giữ
lại một vài bác sĩ tù để vừa giúp đỡ trong việc chuyên môn, để đọc các tên
thuốc bằng ngoại ngữ, vừa để làm kiểng cho phái đoàn ngoại quốc xem, vừa để dạy
cho các bác sĩ (không phải y khoa) cách mạng ống nghe, cách bắt mạch v.v…
Người
được chọn ở lại bệnh xá là một đồng nghiệp đàn anh, từng tốt nghiệp đại học
Paris khi tôi chưa vào trường y khoa, từng giữ nhiều chức vụ điều khiển trong
ngành y tế miền Nam, nay đã lớn tuổi được anh em rất nể nang nên tôn làm “đại
ca”. Đại ca còn có thêm biệt hiệu nữa là “Vua cháo heo” vì thỉnh thoảng được
anh em nuôi heo cho cán bộ, thương tình làm ngơ để cho múc một lon cháo heo (dĩ
nhiên là béo bổ hơn cơm tù ) rồi vụt chạy cho cán bộ khỏi thấy. Thế là tối hôm
đó được một đêm huy hoàng. Sau khi chiếc khóa sắt nặng nề rột rạt khóa kín cửa
chuồng lại, chúng tôi bao quanh đại ca, bên cạnh lon cháo heo bốc khói thơm
phức, vừa xem đại ca lim dim đôi mắt thưởng thức từng hạt bo bo cháy khét mà
tưởng chừng như ăn trứng caviar, vừa để đại ca kể lại cho đàn em nghe những
ngày vàng son còn du học trên đất Pháp, những đêm liên hoan trên đường phố
Montmartre Paris…
Chỉ
huy bệnh xá là một bác sĩ ngành công an, luôn luôn nhìn chúng tôi bằng cặp mắt
nghi ngờ đầy mặc cảm, có lẽ đã đọc được trong phiếu lý lịch của chúng tôi một
tội danh lạ đời: “Can tội: bác sĩ”. Một hôm tịch thu được hộp dụng cụ tiểu phẫu
trong đó có cây kềm Michel giống cái kéo, dùng để gỡ các móc da, bác sĩ loay
hoay mãi không biết làm sao, cuối cùng chê: “Kéo với kiết, thế này thì làm sao
cắt được, dốt thế!”. Mắt bác sĩ đã quen nhìn những lọ Pénicilline Trung cộng làm bằng một thứ chai đục ngầu, bọt lỗ đỗ, nút lọ được khằn kín bằng sáp như
thuốc “cao đơn hoàn tán”, nên khi gặp một lọ Pénicilline bào chế ở miền Nam,
rất kinh ngạc vì kỹ thuật sai biệt, và khi thấy trên lọ mấy chữ: “Laboratoires
Ténamyd Thủ Đức”, bèn mừng rỡ khoe với chúng tôi: “Thuốc của Đức đấy, xã hội
chủ nghĩa anh em ta đấy”.
Dưới
trướng của vị luơng y này là một ban chuyên môn (không phải y khoa) gồm đủ
thành phần. Một anh có hoa tay đục đẽo, chạm trỗ, biến các lon sữa Guigoz thành
những hộp thuốc lá, cái lược, cái vòng, tinh vi như những nữ trang thứ thiệt để
lương y đem về tặng thân nhân hoặc… đổi chác. Một anh ngành quân cụ lo bảo trì
chiếc xe đạp “hữu nghị” mà người cỡi cũng hãnh diện như lái chiếc xe Mercedes
vậy. Một họa sĩ có biệt tài biến hóa những gương mặt trong gia đình lương y từ
một tấm ảnh nhăn nheo vàng khè thành những chân dung sạch sẽ khôi ngô, và lương
y cũng không dấu được sự hài lòng khi thấy khoác lên ông cụ thân sinh chiếc
khăn nhiễu, cái áo gấm, trông rất “quan “, còn phu nhân và ái nữ cũng được mặc
chiếc áo dài mà ngoài đời họ chưa bao giờ sờ tới. Riêng bản thân lương y, khi
đề nghị mặc bộ âu phục cho oai thì lưỡng lự hồi lâu rồi buồn rầu trả lời: “Chớ!
không nên, nhỡ trên biết được thì khốn”, nên đành chấp nhận bộ đồng phục công
an vậy.
Về
phần điều trị, có lẽ Đảng đã sáng suốt thấy rõ sự lúng túng của lương y, nên
chỉ thị cho quốc doanh cung cấp dược phẩm dưới hình thức “viên” hết sức đơn
giản, hễ đau ở bộ phận nào thì đã có những viên tương ứng: viên gan, viên dạ
dày, viên phổi, viên tim, viên xương, viên khớp v.v… Ban đêm nếu có tiếng kêu
cứu từ các phòng vọng ra, thê thảm xé nát sự im lặng nặng nề của trại tù về
đêm, rồi cứ lặp đi lặp lại mãi như dội qua vách núi, cho đến khi lương y khệnh
khạng đến, cho ống nghe qua một khe nhỏ để khám bệnh nhân ở trong phòng rồi
hoặc phát cho vài “viên”, hoặc bắt bệnh nhân dán mông đít vào song cửa sắt
chích cho một mũi thuốc để chờ tới sáng. Cũng trong hoàn cảnh đó, một Thượng
Nghị Sĩ nổi tiếng ở Sài gòn, bị trúng độc vì ăn sắn sống, trộm được lúc ban
chiều khi đi lao động, đã phải chờ mãi cho tới sáng hôm sau, khi được đưa ra
khỏi phòng thì đã quá trễ.
Một
buổi chiều nọ, khi đi lao động về, anh em ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng
lạ thường: trại được sơn phết lại trắng xóa, trên vách tường lại vẽ thêm những
bông hoa màu mè sặc sỡ, có lẽ vì cây cảnh thật đã bị tù bứt lá bẻ hoa không đủ
đem lại vẻ vui tươi cho nhà tù. Giữa sân lại có cảnh nhóm chợ trời, cán bộ bày
bán thịt tươi, rau sống cho anh em tù nào còn dấu đút được chút tiền còm tung
ra mua ăn bồi dưỡng. Những người giàu tưởng tượng cho truyền ngay một câu sấm,
không biết có phải của Trạng Trình không:
“Bao
giờ tường đá nở hoa,
Nhà tù nhóm chợ thì ta…ra về”
Nhà tù nhóm chợ thì ta…ra về”
Về
đâu chẳng thấy nhưng truớc mắt là phải ráo riết chuẩn bị doanh trại để đón tiếp
một phái đoàn ngoại quốc quan trọng, một công tác làm đảo lộn hẳn nếp sống hằng
ngày, để được đền bù bằng một chút an ủi mơ hồ là còn được người đời biết tới.
Ngay
tối hôm đó, một số nhạc cụ kể cả cây dương cầm nặng nề được hì hục chở về từ Hà
Nội để cho ban nhạc tha hồ tập dượt mãi tới khuya . Tiếng nhạc vang lên từ một
góc núi làm khuây khỏa trong chốc lát những u uẩn của tù nhân. Thỉnh thoảng một
vài bản “nhạc vàng” được chơi lén, tiếng réo rắc của “Diễm Xưa”, “Nắng chiều”
gợi lên một nỗi nhớ nhà vô biên, mà lỡ cán bộ có hỏi tới thì anh em đã sẵn câu
trả lời: “Nhạc Cuba
đấy”, thế là yên.
Căn
phòng chật chội hôi hám trong đó hằng mấy trăm mạng người chen lấn giành giựt
từng ly, từng phân trên cái tiêu chuẩn hai bàn tay cho mỗi người, nay được thu
dọn thành ba mươi chỗ nằm rộng rãi tươm tất, với chiếu hoa mới toanh, chăn len
thơm phức, sắp xếp thẳng tắp như trong một quân trường.
Một
cảnh trong phim Ride The Thunder về trại tù cải tạo Nam Hà.
Từ
mờ sáng, ngoài thành phần ở lại để trình diễn, còn tất cả phải lũ lượt kéo nhau
thành từng đàn qua các đường mòn khúc khuỷu để vào trốn sâu trong núi. Các anh
em bệnh nặng thì được cõng, gánh hoặc khấp khểnh lết đi thật xa để khuất khỏi
tầm mắt trong sáng của người ngoại quốc cái hình ảnh vẩn đục thê thảm đó.
Bệnh
xá này nhường lại cho những con bệnh mới, không có bệnh nhưng có một thể xác
chưa tàn tạ nhờ có thăm nuôi, lúng túng học thuộc lòng những căn bệnh thời đại
do “tàn dư Mỹ Ngụy để lại”: sơ gan vì rượu chè, lên máu vì nhậu nhẹt, nghẽn
mạch máu vì xì ke, ma túy… Gọn gàng sạch sẽ trong những bộ đồ ngủ mới toanh,
trên mỗi đầu giường có chưng thêm một hộp sữa cũng “kiểng” như bệnh nhân, nghĩa
là sẽ được thu hồi ngay sau khi phái đoàn ra về.
Ban
thể thao, bóng chuyền, bóng bàn, trong đồng phục gọn ghẽ vui mắt, ra sức “tranh
thủ” để được bồi dưỡng thêm mấy củ khoai. Từ sáng sớm ban nhạc đã inh ỏi trổi
lên những bản nhạc hùng khối cộng sản, gây không khí vui nhộn làm cho quan
khách có cảm giác là đi chơi chợ phiên hơn là đi thăm nhà tù.
“Ride
the Thunder”: Communist re-education camp
Không
hiểu là một phần thưởng hay là một cực hình tủi nhục cho những ai được chọn để
ngồi ăn một bữa cơm “xoàng” mà trong suốt cuộc hành trình cải tạo họ chưa bao
giờ được nếm. Thực đơn, được dán ở cửa, gồm có cơm trắng (một hiếm hoi trên đất
Bắc) và thịt lợn, rau muống (một điều lạ trong nhà tù). Bữa cỗ được diễn tiến
theo một lịch trình khắt khe: ngồi vào bàn khi phái đoàn rời Hà Nội (8 giờ
sáng), cầm đũa khi họ đến cổng trại (10 giờ sáng) để cho bao tử cồn cào tiết
chất chua, nước mắt nước mũi chảy dài vì ngỡ ngàng trước mấy món ăn thơm phức
béo bổ, cứ thế mà chịu đựng cái cực hình sinh lý đó suốt mấy tiếng đồng hồ, hai
tay thì cứ tuyệt vọng vùng vẫy trong một thứ còng vô hình cho đến khi bóng dáng
của phái đoàn cứu tinh xuất hiện ở ngưỡng cửa mới được lệnh cho thức ăn vào
miệng (1 hoặc 2 giờ trưa).
Phần
trình diễn của bệnh xá được mở màn khi phái đoàn đặt chân vào trại. Bác sĩ
trưởng, trong bộ áo bờ lu lụng thụng, chiếc nón vải che khuất chân mày, trịnh
trọng đặt ống nghe vào bệnh nhân ngồi trước mặt, rồi cứ giữ tư thế đó như một
pho tượng sáp cho tới khi phái đoàn đi qua. Lẽ cố nhiên “đại ca” của chúng tôi
cũng có mặt tại bệnh xá với một chỉ thị nghiêm khắc: không được nói tiếng ngoại
ngữ và cố tránh mặt phái đoàn chừng nào hay chừng đó. Một nhà báo Pháp hỏi đại
ca: “Anh biết tiếng Pháp không?”. Vì đã được dặn trước, đại ca phải chờ cho
thông dịch viên Bộ Nội vụ dịch xong để chứng tỏ rằng mình không hiểu được câu
hỏi, rồi mới trả lời “Không”. Nhà báo hỏi tiếp: “Anh tốt nghiệp ở đâu?”. Câu
hỏi bất ngờ này không được ban giám thị cho học tập trước, nhưng cũng vẫn chờ
được dịch xong như thường lệ, đại ca mới trả lời: “Y khoa Đại học Paris”. Nhà
báo bàng hoàng, ngạc nhiên như khám phá được một điều gì bí ẩn, một cái gì bất
thường, tò mò hỏi tiếp thì được biết vợ anh là người Pháp, hiện sinh sống ở
Paris, nên mừng rỡ chụp cho một tấm hình rồi ân cần thêm: “Tuần sau vợ con anh
sẽ nhận được”, lòng hân hoan phấn khởi vì vừa làm được một nghĩa cử trọng đại.
Chưa
kịp mừng thì tai họa đến ngay. Sau khi phái đoàn ra về, thì ông bạn già của
chúng ta, nạn nhân của lòng vị tha nhân đạo kiểu Tây phương, bị bác sĩ trưởng
bệnh xá và ban giám thị gọi lên mắng nhiếc thậm tệ, bắt kiểm điểm lên kiểm điểm
xuống, để rồi, bắt đầu từ hôm sau, hằng ngày phải ra lao động, đập đá, kéo cày,
ngâm mình dưới ruộng như hàng ngàn, hàng vạn anh em tù khác. Ngày tôi về, đại
ca còn ở lại, tiễn đưa tôi bằng cặp mắt đã hết nước mắt và hẹn tôi ở… kiếp sau!
Dư
âm nặng nề của cuộc viếng thăm và vì tấn tuồng đóng vụn, làm cho cơn lôi đình
của lương y đã trút hết lên đầu chúng tôi, nay không còn khoác áo Từ Mẫu nữa mà
lại đội lốt… Ác Mẫu.
Phương
Vũ Võ Tam Anh
*****
Học Tập Cải Tạo hay Tù Giam Thế Kỷ?!
Ngày đi mái tóc còn xanh
Ngày về đã bạc, lưng còng anh ơi
Ngày đi con mới nằm nôi
Ngày về, con đã biết ngồi điểm trang
Anh ơi, lệ ứa hai hàng
Con anh trang điểm, nhưng đời chưa vui
Anh ơi, đời đã chôn vùi
Cánh chim bạt gió, bao năm người hùng!
Đêm nay rả rích côn trùng
Như rên, như rỉ, tiếc ngày xa xưa
Những ngày đi sớm, về trưa
Những ngày hai đứa còn chưa biết gì
Dòng đời chuyển tiếp nhiều khi
Biển dâu, dâu biển, kiếp đời chinh nhân
Đời ai không chết một lần
Các anh đã chết, tuổi đời còn xanh!
Lạ gì cuộc chiến hôi tanh
Miền Nam chính nghĩa chống loài xâm lăng
Cộng quân loài quỷ hung hăng
Tay sai quỷ đỏ, lan tràn thế gian
Một ngày nước mất, ly tan
Một ngày vĩnh viễn đi vào sử xanh
Thương thay những kiếp hùng anh
Xót thay nước mắt tan hàng nơi nơi!
Biển khơi như gọi như mời
Lao ra biển cả, kiếp đời đổi thay
Còn bao phần số không may
Tin lời dụ dỗ, mười ngày thông qua
Bao nhiêu trại đã lập ra
Giam đời tuổi trẻ, tinh hoa cuộc đời
"Học tập cải tạo" là lời
Tù giam thế kỷ, tàn đời chinh nhân!
Giặc thù là lũ bất nhân
Tiểu nhân, bỉ ổi, trả thù các anh
Bao nhiêu kể xiếc cho đành
Biệt giam, đói khổ, nhục hình, tan thây!
Sơn lam chướng khí tù đày
Rừng sâu, núi thẳm, chôn vùi các anh
Trên đầu tóc hãy còn xanh
Trái tim tan nát, gia đình hằn sâu!
Học tập trong chốn vùng sâu
Hằng đêm cán bộ ngu si chém vè
Người khôn chăm bẳm ngồi nghe
Thằng ngu, thằng dốt lăm le dậy đời!
Nỗi đau, oan khốc thấu trời
Đau thương, tủi hận cho đời chinh nhân
Miền Nam trong thế không cân
Hận loài quỷ đỏ, ngu đần vì đâu?
Ngày về, biết sẽ còn lâu
Không ai ngờ được, sẽ lâu chừng nào?
Ngày đi, lời tiễn, câu chào
Ngày về, nước mắt tuôn trào không
thôi!
Anh ơi, một cuộc đổi đời
Cuối cùng cũng đến bến bờ tự do
Tháng tư lại đến buồn lo
Cầu cho vận nước, thoát ra cộng thù!
Ngày nào dân được tự do
Quê hương sống lại, thiên thu cũng
đành!
Hoàng Hạc
Học Tập Cải Tạo hay Tù Giam Thế Kỷ?!
ReplyDeleteNgày đi mái tóc còn xanh
Ngày về đã bạc, lưng còng anh ơi
Ngày đi con mới nằm nôi
Ngày về, con đã biết ngồi điểm trang
Anh ơi, lệ ứa hai hàng
Con anh trang điểm, nhưng đời chưa vui
Anh ơi, đời đã chôn vùi
Cánh chim bạt gió, bao năm người hùng!
Đêm nay rả rích côn trùng
Như rên, như rỉ, tiếc ngày xa xưa
Những ngày đi sớm, về trưa
Những ngày hai đứa còn chưa biết gì
Dòng đời chuyển tiếp nhiều khi
Biển dâu, dâu biển, kiếp đời chinh nhân
Đời ai không chết một lần
Các anh đã chết, tuổi đời còn xanh!
Lạ gì cuộc chiến hôi tanh
Miền Nam chính nghĩa chống loài xâm lăng
Cộng quân loài quỷ hung hăng
Tay sai quỷ đỏ, lan tràn thế gian
Một ngày nước mất, ly tan
Một ngày vĩnh viễn đi vào sử xanh
Thương thay những kiếp hùng anh
Xót thay nước mắt tan hàng nơi nơi!
Biển khơi như gọi như mời
Lao ra biển cả, kiếp đời đổi thay
Còn bao phần số không may
Tin lời dụ dỗ, mười ngày thông qua
Bao nhiêu trại đã lập ra
Giam đời tuổi trẻ, tinh hoa cuộc đời
"Học tập cải tạo" là lời
Tù giam thế kỷ, tàn đời chinh nhân!
Giặc thù là lũ bất nhân
Tiểu nhân, bỉ ổi, trả thù các anh
Bao nhiêu kể xiếc cho đành
Biệt giam, đói khổ, nhục hình, tan thây!
Sơn lam chướng khí tù đày
Rừng sâu, núi thẳm, chôn vùi các anh
Trên đầu tóc hãy còn xanh
Trái tim tan nát, gia đình hằn sâu!
Học tập trong chốn vùng sâu
Hằng đêm cán bộ ngu si chém vè
Người khôn chăm bẳm ngồi nghe
Thằng ngu, thằng dốt lăm le dậy đời!
Nỗi đau, oan khốc thấu trời
Đau thương, tủi hận cho đời chinh nhân
Miền Nam trong thế không cân
Hận loài quỷ đỏ, ngu đần vì đâu?
Ngày về, biết sẽ còn lâu
Không ai ngờ được, sẽ lâu chừng nào?
Ngày đi, lời tiễn, câu chào
Ngày về, nước mắt tuôn trào không thôi!
Anh ơi, một cuộc đổi đời
Cuối cùng cũng đến bến bờ tự do
Tháng tư lại đến buồn lo
Cầu cho vận nước, thoát ra cộng thù!
Ngày nào dân được tự do
Quê hương sống lại, thiên thu cũng đành!
Hoàng Hạc