Việt Nam một thời
theo mô hình kinh tế và xã hội Liên Xô
Việt Nam, cùng với
Trung Quốc và một vài nước nhỏ hơn được biết đến như những thành trì cuối cùng
của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới.
Kể từ sự sụp đổ của
Liên Bang Xô Viết, chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam đã phải thay đổi rất nhiều để
tồn tại trong hoàn cảnh mới.
Sự quay lưng lại nền
kinh tế tập trung bao cấp để hướng tới tư bản thị trường đã đưa một quốc gia
nghèo đói lạc hậu chuyển mình thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh bậc nhất thế giới.
Từ nền kinh tế tư bản
hóa
Nhiều khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam thực sự ngỡ ngàng khi tận mắt chứng kiến một đất nước Cộng
sản hoàn toàn khác xa với những gì họ tưởng tượng.
Trên những đường phố
tấp nập xe cộ là hình ảnh của đồ ăn nhanh, hàng hiệu và đồ điện tử Apple, nhứng
biểu tượng của chủ nghĩa tư bản.
Truyền thông thì
ngày càng trở nên thực dụng tranh cãi nhau xem cô người mẫu anh diễn viên nào
diện áo quần đắt hơn, hoặc đại gia nào giàu hơn trên sàn chứng khoán.
Chủ nghĩa tiêu dùng
như đang cuốn tất cả mọi người vào cơn kích động mạnh chưa từng có, để rồi bất
chợt nhiều người tự hỏi, Việt Nam còn mấy phần Cộng sản.
Trong một khảo sát của
trung tâm nghiên cứu Pew Research đặt tại Washington DC, có đến tận 95% người
Việt được khảo sát đặt niềm tin vào sự dẫn dắt của thị trường tự do, cao hơn hẳn
các quốc gia tư bản như Mỹ hay Hàn Quốc, hoặc thậm chí là Trung Quốc, đất nước
có nhiều tương đồng về kinh tế và chính trị.
Điều này minh chứng
rằng không còn mấy người Việt Nam còn tin tưởng vào định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Triết học Mác Lê Nin giờ
đây không còn được dùng như kim chỉ nam cho các nhà hoạch định chính sách.
Dân TPHCM đến ăn
quán Mỹ McDonald's
Nếu ai đó còn nhắc đến
học thuyết Mác xít thì có lẽ chỉ là trên những giảng đường thiếu sinh viên, hoặc
ngoài quán nước như những câu chuyện cười cợt siêu thực về một thời quá đỗi
lãng mạn mà không ai còn muốn kể nữa.
Cho đến các Chính
sách an sinh xã hội mất cân bằng
Có một sự hiểu lầm rất
lớn của nhiều người phương Tây về Việt Nam, một trong những nước xã hội chủ
nghĩa cuối cùng, đó là các nước XHCN hướng trọng tâm lớn vào các Chính sách an
sinh như giáo dục, y tế, hưu trí và thất nghiệp.
Đây là nền tảng cơ bản
của CNXH để giải thích cho tính chính danh của Đảng Cộng sản.
Nhưng cuộc đình công
lớn gần đây ở khu công nghiệp ngoại ô Sài Gòn như một cú tát phủ nhận tất cả.
Người lao động đứng trước nguy cơ mất trắng tiền trợ cấp khi quỹ Bảo hiểm có
nguy cơ tan vỡ.
Cần phải nhấn mạnh
là đây là số tiền do các doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho người lao động,
hay nói cách khác là được trích ra từ lương làm công của chính họ, không phải
là từ tiền thuế do Nhà nước trợ cấp.
Bản thân các Tổ chức
Công đoàn, với được đặc cấp cho quyền lực lớn trong chế độ XHCN với vai trò bảo
vệ người lao động, thì nay gần như trở thành một hình thức vô tích sự mà thực
chất là bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp hơn là người lao động.
Có nhiều nghi ngờ rằng
Công đoàn trong các Khu chế xuất còn tiếp tay cho lực lượng an ninh trấn áp các
cuộc đình công tự phát.
Điều này hoàn toàn
trái ngược với vai trò của Công đoàn ở các quốc gia tư bản phát triển.
Cần phải hiểu theo
đúng nghĩa, không có đất nước nào là tuyệt đối “tư bản” hay “XHCN”.
Những quốc gia tư bản
phát triển Tây Âu thực tế chịu ảnh hưởng lớn từ phe
cánh tả, vốn luôn trọng tâm vào các chính sách ngăn chặn bất bình đẳng để hướng
tới xã hội nhân văn hơn.
Ví dụ như ở Đức, tất
cả mọi người được đảm bảo được tận hưởng một nền giáo dục miễn phí cho tới tận
Đại học.
Nhà nước cũng cung cấp
y tế miễn phí cho tất cả người dân với yêu cầu là tất cả mọt người phải có bảo
hiểm.
Bảo hiểm y tế được
chi trả dựa vào mức thu nhập, nghĩa là người thu nhập thấp đóng ít hơn người có
thu nhập cao và phù hợp với khả năng chi trả của mình.
Người già được hưởng
lương hưu, người thất nghiệp cũng được hưởng trợ cấp, không nhiều nhưng đủ chi
tiêu cho những nhu cầu cơ bản.
Trong trường hợp của
Việt Nam, chi phí cho giáo dục và y tế là gánh nặng thường trực cho nhiều hộ
gia đình.
Cấp tiểu học là cấp
học duy nhất Nhà nước chia sẻ một nửa học phí, nửa còn lại phụ huynh phải tự
đóng.
Các chi phí phát
sinh trên thực tế như phí xây dựng, vệ sinh, thậm chí quà bánh cho giáo viên
còn lớn hơn rất nhiều.
Nếu cộng tất cả những
chi phí này lại, các hộ gia đình Việt Nam chắc hẳn chi cho giáo dục trên thu nhập
đầu người nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Chi phí y tế cũng thực
sự là một gánh nặng vô cùng lớn ở Việt Nam. Theo một thống kê trên báo nhân dân,
tỷ lệ chi từ tiền túi bệnh nhân ở Việt Nam là 50%, quá cao so với 13.1% ở Thái
Lan, 35% ở Malaysia hay 20% mức trung bình chung của thế giới.
Cuộc biểu tình ở
Tân Tạo cho thấy Công đoàn của Đảng Cộng sản không vì công nhân
Song hành với viện
phí là giá thuốc cũng cao bậc nhất khu vực.
Các khoản phí này
tác động mạnh nhất lên nhóm có thu nhập dưới đáy. Có tới gần 60% số hộ gia đình
nghèo mắc nợ do chi phí khám chữa bệnh và 67% phải vay mượn tiền để chi trả
điều trị nội trú.
So sánh với Cuba, đất
nước còn ở giai đoạn “Cộng sản thuần khiết”, dù thu nhập đầu người thấp hơn
nhưng hệ thống y tế ở đây hoàn toàn miễn phí đối với tất cả các thành phần xã hội.
Thành tựu y tế của
Cuba đáng nể đến mức nhiều quốc gia phát triển hơn cũng phải ngưỡng mộ.
Chi tiêu Công thiếu
minh bạch
Việt Nam sử dụng tới
20% ngân sách cho giáo dục, cao hàng đầu thế giới. Dù chi tiêu nhiều nhưng tiến
bộ của ngành giáo dục không mấy khả quan.
Điều này là không
đáng ngạc nhiên khi nhìn vào công cuộc cải cách giáo dục càng chi càng trì trệ.
Năm 2014, Bộ GDDT
trình lên đề án đổi mới sách giáo khoa sau năm 2015 dự toàn hơn 34000
tỷ đồng. Gần 1.5 tỷ USD chỉ để thay sách khiến dư luận không khỏi kinh ngạc.
Chắc hẳn người được
lợi nhiều nhất không phải là học sinh sinh viên, nhân tố trung tâm của ngành
giáo dục.
Các quỹ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế ở Việt Nam được dự báo là sẽ vỡ từ nhiều năm trước.
Đây là hệ quả trực
tiếp từ việc sử dụng nguồn vốn từ thuế và đóng góp của người lao động để đầu tư
thiếu minh bạch.
Những cuộc đình công
lớn gần đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh khi nguy cơ các quỹ này mất khả năng
chi trả càng lúc càng lớn.
Dù Chính phủ đã có
phương án xoa dịu bằng việc đảm bảo người lao động sẽ được nhận đủ tiền, vấn đề
là tính khả thi như thế nào khi nợ công càng lúc càng lớn.
Một Việt Nam thị trường
chủ nghĩa
Việt Nam có lẽ là nước
duy nhất trên thế giới trực tiếp công khai “Xã hội Chủ nghĩa” trên Quốc hiệu,
nhưng là quốc gia có rất ít chính sách để đảm bảo bình đẳng xã hội.
Thực tế, ranh giới
giàu nghèo và quyền lợi tầng lớp trên và dưới được hưởng đang ngày càng phân cấp
dữ dội.
Việt Nam là 'xã
hội chủ nghĩa' trên quốc hiệu và trong lợi ích các tập đoàn đặc quyền
Những Tổng công ty,
tập đoàn này về nguyên tắc phải sử dụng những đặc ân này làm động lực cho kinh
tế đất nước, nhưng trên thực tế đang tạo lực cản phát triển.
Tôi còn nhớ những
năm 90 khi đất nước mới mở của, mọi người còn hỏi nhau “hàng Nhà nước hay gia
công”, ý nói hàng hóa do Nhà nước sản xuất luôn được ưu tiên hơn tư nhân.
Bây giờ thì hoàn
toàn khác, nhiều tập đoàn nhà nước do quản lý kém và tham nhũng tràn lan làm xói
mòn niềm tin của dân chúng vào nỗ lực dẫn dắt của Chính phủ.
Những vấn đề này
thách thức trực tiếp vào tính chính đáng của giới lãnh đạo, cũng như đặt một dấu
hỏi lớn lên đường lối XHCN mà Chính phủ Việt Nam vẫn một mực cho là “đúng đắn”.
Việt Nam của ngày
hôm nay chắc chắc không còn là một Việt Nam Cộng sản của những năm tháng mới giải
phóng.
Thời gian này có
trào lưu nhiều quán cà phê mới mở chọn phong cách như thời bao cấp.
Có lẽ đâu đó còn có
ít nhiều nuối tiếc về những ngày tháng thiếu thốn nhưng công bằng, nhưng chắc hẳn
không ai còn muốn quay lại nữa.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.