Những
người có quan tâm tới vận mệnh của dải đất được gọi là Việt Nam không khỏi giật mình lo ngại khi đọc tin về
chuyến thăm Trung Cộng vừa mới đây của Tổng Bí Thư (TBT) đảng cộng sản Việt Nam .
Ngay lập tức sau khi tin về bản Thông cáo chung giữa ông TBT và Trung
Cộng được báo đảng công bố, với một danh sách nhiều văn bản thỏa thuận được ký
kết, nỗi lo âu đã lan tràn và bao phủ đời sống tinh thần của người Việt.
Nỗi
lo âu đã khiến cho GS Tương Lai lên tiếng trên truyền thông quốc tế ,
và đã khiến cho một số người, trong đó có Hòa Vân và Vũ Quang Việt, bỏ
thời gian phân tích và cảnh báo về các nguy cơ mà các thỏa thuận có thể mang
lại cho Việt Nam.
Và
nó cũng gây nên cảm giác bất an ở nhiều người đến mức họ cảm thấy cần phải có
hành động. Có lẽ tới đây sẽ có những hành động thể hiện phản ứng (của những
người Việt quan ngại về nguy cơ mất nước) đối với bản Thông cáo chung này nói
riêng và chuyến đi của ông Trọng nói chung.
Ông
Tương Lai, trong bài phỏng vấn trên BBC, kêu gọi nhân dân Việt Nam phải cảnh
giác trước màn kịch đường mật dối trá mà Trung Cộng trình diễn trước ông TBT và
phái đoàn của ông ta. Ông Tương Lai nhắc lại sự mù quáng và yếu hèn của ông
Nguyễn Văn Linh ở hội nghị Thành Đô năm 1990, đồng thời cũng nhắc lại cảnh báo
của ông Nguyễn Cơ Thạch về thời kỳ Bắc Thuộc mới, hậu họa của các ký kết tại
Thành Đô. Ông Tương Lai giờ đây quan ngại về nguy cơ một Thành Đô thứ hai, do
chuyến đi và sự ký kết lần này của TBT đương nhiệm, tại Bắc Kinh ; ông kêu gọi
: « Phải cảnh giác không được để xảy ra một Thành Đô thứ hai ». Ông Tương Lai
không ngần ngại chỉ ra « chưa bao giờ người ta thấy bộ mặt nhơ bẩn và nham hiểm
của Trung Cộng như thời điểm này ». Và cuối cùng ông nhấn mạnh rằng sự độc lập
và phát triển của Việt Nam
phụ thuộc vào việc Việt Nam
có thể gia nhập TPP lần này hay không. Ông khẳng định rõ ràng : ‘Kẻ nào kỳ này
mà ăn phải bả của Trung Cộng mà đẩy lùi việc Việt Nam gia nhập TPP thì kẻ đó sẽ là
tội đồ của dân tộc ». Hy vọng những lời này đến được tai ông TBT và phái đoàn
của ông ta.
Hai
tác giả Hòa Vân và Vũ Quang Việt, trong bài viết đăng trên diendan.org,
đưa ra cảnh báo về các nguy cơ do việc ký kết của ông Nguyễn Phú Trọng với Tập
Cận Bình, đặc biệt tập trung phân tích thỏa thuận thành lập các « Nhóm
công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng », « Nhóm Công tác về hợp tác
tiền tệ » và « Nhóm Công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên
biển ». Họ đặt vấn đề về thái độ của TBT, lãnh đạo cao nhất nước, thái độ
mà họ cho là « thái độ xin xỏ ». Đồng thời, liên quan đến « Nhóm công tác
về hợp tác tiền tệ », họ quan ngại rằng : « Có phải đây là âm mưu nối
lại dự án « đề nghị thanh toán bằng nhân dân tệ tại Việt Nam » mà quả
bóng thăm dò đưa ra hồi đầu năm nay đã mau chóng bị dẹp vì phản ứng của người
Việt ? ».
Các
phân tích về những ký kết của ông Trọng liên quan đến vấn đề Biển Đông cho phép
Hòa Vân đi tới kết luận rằng : « ông Trọng đặt bút ký vào một Tuyên bố
chung như vậy là cố tình dọn đường cho những bước thu tóm quần đảo
Trường Sa mà Trung Cộng đang tích cực chuẩn bị ».
Hòa
Vân cũng chỉ ra rằng, bản Thông cáo chung được đăng trên báo Nhân dân đã bị cắt
bỏ một thông tin quan trọng mà tờ Nikkei Asian Review của Nhật công bố : «ông
Trọng đã đồng ý « đưa cảng Hải Phòng vào chương trình xây dựng Con đường
Tơ lụa trên biển do Trung Cộng khởi xướng.” (tin được đăng lại trên BBC
8.4.2015) ».
Vũ
Quang Việt chỉ ra rằng ký kết này mang lại những đe dọa nguy hiểm cho an ninh
quốc gia : «Lời hứa trên của Nguyễn Phú Trọng được cụ thể hoá bằng các nhóm
công tác có thể đưa đến tình hình tệ hơn những gì xảy ra ở dự án Bô Xít ở Tây
Nguyên mà Nông Đức Mạnh đã ký ».
Qua
bài phỏng vấn của GS Tương Lai và bài viết của hai tác giả Hòa Vân và Vũ Quang
Việt, ta thấy rằng, dường như đã thành quy luật, từ nhiều năm nay, đặc biệt từ
1990, các đời TBT đảng cộng sản Việt Nam ,
với các ký kết của họ với Trung Cộng, dần dần đưa Việt Nam vào tình
thế ngàn cân treo sợi tóc.
Tại
sao ông Trọng cho cắt bỏ thông tin về việc ông đồng ý đưa cảng Hải Phòng vào
chương trình Con đường tơ lụa trên biển của Trung Cộng ? Tại sao ông muốn giấu
người dân Việt Nam
việc ký kết này ? Phải chăng chính ông cũng biết rằng việc ký kết của ông sẽ
giúp Trung Cộng mở con đường tơ lụa, nhưng lại đẩy Việt Nam vào tử lộ ? Ông biết rằng người
dân Việt Nam
sẽ nhìn ra điều này, sẽ nhìn ra rằng các thỏa thuận của ông có thể đẩy họ vào
đường chết, và còn nhìn rõ hơn ông, nên ông cho giấu đi ? Nhưng tai hại là ở
chỗ : ông muốn giấu còn Trung Cộng thì không. Trong thời đại toàn cầu hóa và
internet hóa này, không có gì có thể giấu giếm được, dường như lãnh đạo Việt Nam thường
xuyên quên mất điều này. Tuy nhiên, sự giấu giếm thông tin chỉ chứng minh rằng
lãnh đạo Việt Nam
không phải không biết đến sự nguy hiểm do các ký kết của mình mang lại. Vậy thì
cần phải hỏi : Tại sao họ biết là nguy hiểm cho quốc gia mà vẫn đặt bút ký ?
Ông Nguyễn Phú Trọng cần trả lời người dân những câu hỏi đó.
Ngoài
ra, khi tôi đi tìm nội dung của các văn bản đã được ký kết lần này, thì không
tìm thấy ở đâu cả. Người dân có quyền được biết các nội dung của bản “Kế hoạch
hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Cộng sản Trung Cộng giai đoạn 2016-2020″, cũng như nội dung của tất cả
các văn bản đã được ký kết lần này. Trong một xã hội bình thường, người dân
phải được biết hai đảng hợp tác những gì. Hoặc đúng hơn, lẽ ra ông Trọng phải
hỏi ý kiến của người dân về các nội dung hợp tác trước khi ông đặt bút ký với Trung
Cộng, hoặc ít ra ông phải hỏi ý kiến của Quốc Hội. Nhưng thể chế chính trị độc
tài khiến xã hội Việt Nam
rơi vào tình thế : ngay cả sau khi các chính sách quan trọng, thậm chí có ý
nghĩa sống còn đối với quốc gia, đã được ký kết, người dân không hề được biết
nội dung của chúng là gì. Đây chính là điểm làm cho những người có suy nghĩ cảm
thấy lo lắng, bất an. Đấy là lý do khiến ông Tương Lai và nhiều người khác dự
cảm về một Thành Đô thứ hai. Công dân của nước CHXHCNVN không hề được biết số
phận của mình và số phận của dân tộc mình được quyết định như thế nào.
Mặt
khác, một người làm nghề phân tích văn bản đã trên hai mươi năm như tôi, khi
đọc văn bản « Thông cáo chung » này không khỏi cảm thấy choáng váng, vì nhiều
lý do. Ở đây tôi chỉ trình bày một lý do, qua việc phân tích điểm 3 và điểm 4
của bản Thông cáo chung mà tôi trích lại nguyên văn dưới đây :
3. Nhân
dịp 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam -Trung Cộng, hai bên nhìn lại
truyền thống tốt đẹp kề vai sát cánh, ủng hộ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau của
nhân dân hai nước trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, trong tiến trình
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam và
Trung Cộng là láng giềng quan trọng của nhau, nhất trí cho rằng hai nước có chế
độ chính trị tương đồng, có con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ vận mệnh
tương quan, sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho nước kia.
4. Hai
bên nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Cộng sẽ tiếp tục kiên trì nỗ lực thực hiện tốt
phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác
tốt”, luôn nắm vững phương hướng phát triển của quan hệ Việt – Trung, thúc đẩy
quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung không ngừng phát
triển lên phía trước.
Bản
Thông cáo chung này được ông Nguyễn Phú Trọng ký vào thời điểm nào, trong một
bối cảnh như thế nào ?
Ông
Nguyễn Phú Trọng dường như không biết hoặc cố tình không biết thực tế là Trung
Cộng đang leo thang trắng trợn trên Biển Đông. Dường như ông không biết rằng Trung
Cộng không chỉ xây dựng thành phố trên Hoàng Sa, vốn là của Việt Nam , dường như
ông không biết rằng Trung Cộng đang xây căn cứ quân sự trên Trường Sa, đang xây
đảo nhân tạo nhằm hợp pháp hóa cái gọi là đường chín đoạn. Dường như ông Trọng
không biết rằng hành vi lấn lướt của Trung Cộng đang khiến cho cả thế giới lo
ngại, nên ông mới có thể hoàn toàn bình thản khi ký vào một văn bản với lời lẽ
như vậy ?
Dường
như ông Trọng cũng quên mất dàn khoan 981 và nỗi nhục nhã kéo dài hàng hai
tháng liền, nỗi nhục của cả nước, và của chính ông, nỗi nhục nhã vẫn còn đang
mới nguyên. Dường như ông Trọng cũng quên luôn bao nhiêu ngư dân Việt Nam bị Trung
Cộng giết chết khi đánh bắt trên hải phận của mình, và bao nhiêu chiến sĩ đã
chết ở Gạc Ma, ở biên giới Việt-Trung 1979. Nếu ông không quên thì làm sao ông
có thể « tiếp tục kiên trì nỗ lực thực hiện tốt » cái « mười sáu chữ
vàng, bốn tốt » như trong mục 4 trên đây ? Nếu ông không quên thì làm sao ông
dám « nhìn lại truyền thống tốt đẹp kề vai sát cánh, ủng hộ lẫn nhau, giúp
đỡ lẫn nhau » trong mục 3 trên đây ?
Đành
rằng văn bản ngoại giao có những quy tắc cần tuân thủ, có những sự tinh tế và
khéo léo phải đảm bảo, nhưng ngôn ngữ của văn bản ngoại giao phải thể hiện bản
lĩnh của người lãnh đạo và đảm bảo danh dự cho quốc gia. Một lãnh đạo có tự
trọng cá nhân và tự trọng dân tộc không thể để cho người ta muốn viết gì thì
viết, không thể chấp nhận mọi thứ lời lẽ, không thể bất chấp thực tế để « uốn
lưỡi » mà làm tổn hại đến quốc thể được.
Viết
đến đây, tôi không thể nào không nhớ lại văn bản « Hịch tướng sĩ » của người
xưa : « Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà
không biết thẹn; Làm tướng triều đình phải đi hầu quân giặc mà không biết tức,
nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm ».
Ngày
nay, ông Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là người đứng đầu quốc gia, ký vào một
văn bản với lời lẽ dối trá như vậy, sử dụng những lời lẽ « xin xỏ » (như Hòa
Vân đã phân tích) thì chính ông đã làm nhục quốc thể, đã làm cho « nước nhục ».
Xin
quý độc giả lưu ý rằng không phải ngẫu nhiên mà tôi viết « bản Thông cáo chung
giữa ông TBT và Trung Cộng ». Đối với tôi, bản thông cáo đó không phải là một
sự ký kết giữa Việt Nam và Trung Cộng, chỉ là sự ký kết giữa cá nhân ông Nguyễn
Phú Trọng cùng phái đoàn của ông ta và Tập Cận Bình. Ông Trọng không đại diện
cho toàn bộ dân tộc Việt Nam ,
không đại diện cho ý nguyện chung của chín mươi triệu người Việt Nam . Ông Trọng
chỉ đại diện cho bản thân ông ta, và nếu các đảng viên trong đảng của ông ta,
sau khi biết chuyện này mà không phản đối ông ta, thì có thể nói ông ta đại
diện cho các đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam . Nhưng ông Trọng không thể đại
diện cho toàn dân Việt Nam
khi ký kết vào những văn bản như vậy. Ít nhất, cá nhân tôi không chấp nhận để
ông ta đại diện cho tôi, một công dân Việt Nam , trong hành vi ký kết của ông
ta, cái hành vi có nguy cơ dẫn tới việc làm thất thiệt cho lợi ích quốc gia, và
làm mất thể diện của quốc gia, như đã phân tích ở trên. Tôi phỏng đoán rằng
nhiều công dân Việt Nam
khác cũng có thái độ như tôi.
Ông
TBT còn một chuyến đi Mỹ ở phía trước. Ông có biết là người dân đang chờ đợi ở
ông điều gì ? Ông có thể chứng tỏ cho người dân thấy rằng ông ý thức được cương
vị mà ông đang đảm nhiệm, cương vị của một người đứng đầu một quốc gia ? Ông có
thể chứng tỏ cho người dân thấy ông ý thức được trọng trách mà ông đang nắm
giữ, ý thức được rằng mỗi hành vi, mỗi lời nói, mỗi chữ ký của ông có thể để
lại di họa khôn lường hay có thể tạo tiền đề cho đất nước và dân tộc phát triển
?
Giữa
tương lai của cả dân tộc và cái bình đầy chuột của ông, ông sẽ chọn cái gì ?
Chúng tôi chờ đợi câu trả lời của ông trong chuyến thăm Hoa Kỳ sắp tới.
Nguyễn
Thị Từ Huy
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.