Một
góc Bến Bạch Đằng ở Sài Gòn trong những ngày cuối tháng 4/1975.
Với
kinh nghiệm của ba tôi, một nhà cách mạng quá cố, đã từng chống Pháp và Việt
Minh, vào những ngày đầu tháng Tư năm 1975, anh cả tôi đã nói với tất cả các
anh em đều là quân nhân quân đội Cộng Hoà, ai có tàu bè, có máy bay cứ tự do
quyết định đi đâu thì đi.
Thế
nhưng với tinh thần quốc gia khí phách, đã từng đi Mỹ và hoạt động chung với
người Mỹ, anh tôi vẫn tỏ ra không thân thiện với họ.
Những
ngày cuối của tháng Tư năm 1975. Mọi việc thay đổi hẳn, thái độ hận người Mỹ đã
bỏ rơi miền Nam, thêm vào đó bà cụ thân sinh chúng tôi không muốn đi Mỹ; và anh
tôi cũng e ngại sang xứ sở xa lạ làm gì để sống; và anh tôi quan niệm rằng
người Việt cộng sản đối xử với người Nam Việt sau chiến tranh cũng không đến
nỗi nào, sướng cùng sướng, khổ cùng khổ.
Hình
ảnh những người di tản bị người Mỹ đấm đạp không cho lên máy bay trực thăng,
qua Guam bị xịt thuốc sát trùng DDT, đã khiến ông trở nên quyết liệt, không
muốn ra đi kéo theo một loạt 5 anh em cùng ở lại.
Các
Hạm Trưởng đàn em của ông đem xuồng đến tận nhà đón cả gia đình, ông đều từ
chối.
Anh
kế của tôi, một thiếu tá không quân đã mang vợ con vào phi trường Tân Sơn Nhất
để chờ máy bay di tản, nhưng phi trường bị pháo kích dữ dội và bị một cú hải
pháo công kích của ông anh ruột:
"Mày
tính đưa vợ con mày sang Mỹ để làm đĩ hả?"
Ông
anh kế của tôi rất bực bội, đành cuốn khăn gói đem vợ và 4 đứa con còn nhỏ dại
trở về nhà.
Em
kế tôi mới vừa mới tốt nghiệp dược khoa, thừa sống, thiếu chết trở về Sài Gòn
từ Đà Nẵng giữa cảnh hãm hiếp, cướp bóc trên các con phà lênh đênh trên biển đã
khiến những bức tranh vẽ về các vụ di tản trở nên thật tồi tệ.
Ở
lại và đi tù
Nhiều
người dân chạy nạn tại khu vực Xuân Lộc, cửa ngõ Sài Gòn, những ngày giữa tháng
4/1975.
Không
có một quân đội nào trên thế giới can đảm và có kỷ luật như binh lính miền Nam
khi các máy bay chở những người chỉ huy cuả họ chạy sang đảo Guam, các hàng
không mẫu hạm Mỹ của Đệ Thất Hạm Đội chờ sẵn ngoài khơi để đón các đoàn người
di tản; trong khi viện trợ quân sự và nhất là viện trợ kinh tế bị Quốc Hội Hoa
Kỳ cắt tàn nhẫn.
Những
người lính chiến biết chắc họ sẽ không được lãnh lương, vợ con sẽ nheo nhóc vừa
phần thiếu thốn vũ khí đạn dược, nhưng họ vẫn ghì tay súng tại mặt trận Xuân
Lộc cho đến khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
Sau
30/4 1975. Cả năm anh em đều lần lượt, người mang theo 10 ngày ăn, người 15
ngày rủ nhau tình nguyện đi trình diện học tập cải tạo để sớm về "lao
động" kiếm tiền nuôi mẹ, nuôi vợ, nuôi con.
Khi
chúng tôi làm bản tự khai sơ yếu lý lịch, thì chúng tôi phải điền và mục ngày
bị bắt là ngày đi trình diện học tập cải tạo.
Mẹ
chúng tôi trở nên hao mòn, người choắt lại như đứa trẻ khi vào thăm nuôi tôi
lần đầu tiên tại trại cải tạo Hóc Môn.
Trông
thấy tôi, bà cụ òa khóc, viên quản giáo to tiếng:
"Bà
không động viên con bà mà còn khóc lóc cái gì?"
Mẹ
tôi trả lời: "Tôi thương con tôi, tôi khóc, anh cấm cả khóc à?"
Một
cảnh trong phim Ride The Thunder về trại tù cải tạo
Năm
anh em đều đi tù cải tạo, người ra Bắc, kẻ trong Nam . Người 3 năm, người 6 năm,
người 12 năm. Các bà chị ruột, chị dâu đầu tắt, mặt tối buôn thúng bán mẹt, chạy
chợ trời lam lũ để nuôi con, nuôi chồng.
Sau
hơn 6 năm tù tội, có lúc tuyệt vọng muốn kết liễu đời mình trong lúc bệnh hoạn
thập tử nhất sinh khi nghe tiếng trống báo thức giữa núi rừng Kà Tum âm u,
chướng khí. Khi tôi được nghe lệnh thả, bèn ba chân, bốn cẳng đi vội càng xa
cánh cửa nhà tù càng tốt bấy nhiêu.
Lần
lượt vượt biên
Bà
cụ tôi mặt mũi xanh xao vừa mở cửa nhà đón tôi vào nhà đã ôm tôi khóc và báo
cho tôi biết là anh cả và em út đã bị bắt trên đường vượt biên, mặt đất dưới
chân tôi dường như bị sụp đổ.
Làn
sóng tị nạn Việt Nam
đã bùng nổ mạnh mẽ từ 4/1975 và phát triển thành cao trào thuyền nhân trong các
năm thập niên 1970, 1980.
Trong
thời gian bị quản chế tôi phải trình diện công an khu vực và họp tổ dân phố mỗi
tuần, ban ngày ngược xuôi đạp xe bán mối thượng vàng, hạ cám kiếm tiền nuôi
thân.
Bà
cụ tôi vẫn muối dưa cà gánh gồng đưa ra chợ bán.
Sau
nhiều lần vượt biên thất bại, một lần bị bắt, tôi đã bứt dây trói trốn thoát,
chạy trối chết dưới hàng loạt đạn AK 47 nã đuổi theo sau lưng.
Theo
dõi sinh hoạt hơi thất thường của tôi, công an khu vực gọi tôi lên chỉ vào mặt:
"Anh
coi chừng!"
Ngay
ngày hôm sau, đúng ngày Quốc Khánh Mỹ 4/7/1984, tôi đi vượt biên lại thất bại
phải trở về vì không tìm được chiếc ghe lớn.
Sau
đó 4 ngày, gặp đúng chuyến, tôi đã lái ghe chở 67 người vượt thoát đến dàn
khoan Udang Natuna ngoài khơi Nam Dương (Indonesia) an toàn.
Sang
Mỹ, tôi đổi nghề lái tàu, sang nghề đóng máy bay cho Boeing, Airbus, tháng 6
năm nay sẽ lãnh tiền Social Security (chế độ hưu bổng) vừa tròn đúng 70 tuổi.
Mong
mỏi tương lai
Nhìn
lại dấu mốc 40 năm, tôi tiếc thương cho người anh cả giỏi giang, khí khái đã
mất tích trên biển trên đường vượt biên năm 1987.
Đó
là một người anh đã hy sinh, tận tụy cho gia đình, yêu thương văn hoá, yêu nước
và dân tộc Việt Nam, một người có học từng tốt nghiệp trường Albert Sarraut tại
Hà Nội.
Tôi
rất thương tiếc những thanh niên tuấn tú cả hai miền đã bỏ mình trên chiến
trường vì chủ nghĩa, ý thức hệ ngoại lai, vì những dối trá, lường gạt cuả một
nhóm lãnh tụ hoạt đầu đầy tham vọng.
Tác
giả mong sớm có một đất nước Việt Nam
dân chủ, tự do, thịnh vượng sau 40 năm cuộc chiến Việt Nam khép lại.
Binh
sĩ hai miền đã dùng võ khí ngoại bang chém giết lẫn nhau gây hận thù chia rẽ
dân tộc không biết bao giờ mới chấm dứt.
Nếu
không có cuộc chiến tranh phi lý Quốc, Cộng, đất nước được thống nhất trong hoà
bình, với tinh thần đoàn kết cả hai miền, dân Việt sẽ dư sức dốc tâm kiến tạo
một nước Việt Nam cường thịnh không khó khăn gì.
Thiển
nghĩ, với những người lính đã cầm súng chiến đấu ở hai bên chiến tuyến và đồng
bào trong và ngoài nước việc cảm thông, nối vòng tay Việt không là một trở ngại
lớn.
Nhưng
việc hoà hợp, hoà giải giữa đồng bào Hải Ngoại, những người bất đồng chính kiến
trong nước với nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội hiện tại mới chính là vấn đề thực
nan giải.
Từ
quê hương thứ hai, qua Thái Bình Dương bao la, xanh ngát, nhìn về cố quốc, mong
sớm có một đất nước Việt Nam
dân chủ, tự do, thịnh vượng.
Trần
Viễn Xứ
*****
Tưởng niệm 30 tháng tư!
Làm sao quên được người ơi
MiềnNam mất nước ngày này năm xưa
Đã qua bốn chục mùa mưa
Bao nhiêu tang tóc, lệ chưa phai nhoà!
Một ngày cả nước vỡ oà
Niềm vui gian dối, nỗi đau tận cùng
Đau thương, tang tóc chập chùng
Quê hương bỗng chết, một ngày mùa xuân!
Một ngày bầy lính, đoàn quân
Thùng thình quần áo, ngu ngơ mặt mày
Một ngày giặc đã về đây
Sài Gòn còn đó, kẻ nào đổi tên?!
MiềnNam niềm nhớ không tên
ViệtNam hai tiếng linh thiêng đầu đời
Còn đâu trang sử sáng ngời?
Giặc về bức tử quê hương đoạ đày!
MiềnNam nước mất một ngày
Quê hương dân tộc lầm than một đời
Hôm nay xin nguyện một lời
Chung tay góp sức, dẹp tan cộng thù
Hoàng Hạc
Làm sao quên được người ơi
Miền
Đã qua bốn chục mùa mưa
Bao nhiêu tang tóc, lệ chưa phai nhoà!
Một ngày cả nước vỡ oà
Niềm vui gian dối, nỗi đau tận cùng
Đau thương, tang tóc chập chùng
Quê hương bỗng chết, một ngày mùa xuân!
Một ngày bầy lính, đoàn quân
Thùng thình quần áo, ngu ngơ mặt mày
Một ngày giặc đã về đây
Sài Gòn còn đó, kẻ nào đổi tên?!
Miền
Việt
Còn đâu trang sử sáng ngời?
Giặc về bức tử quê hương đoạ đày!
Miền
Quê hương dân tộc lầm than một đời
Hôm nay xin nguyện một lời
Chung tay góp sức, dẹp tan cộng thù
Hoàng Hạc
Tưởng niệm 30 tháng tư!
ReplyDeleteLàm sao quên được người ơi
Miền Nam mất nước ngày này năm xưa
Đã qua bốn chục mùa mưa
Bao nhiêu tang tóc, lệ chưa phai nhoà!
Một ngày cả nước vỡ oà
Niềm vui gian dối, nỗi đau tận cùng
Đau thương, tang tóc chập chùng
Quê hương bỗng chết, một ngày mùa xuân!
Một ngày bầy lính, đoàn quân
Thùng thình quần áo, ngu ngơ mặt mày
Một ngày giặc đã về đây
Sài Gòn còn đó, kẻ nào đổi tên?!
Miền Nam niềm nhớ không tên
Việt Nam hai tiếng linh thiêng đầu đời
Còn đâu trang sử sáng ngời?
Giặc về bức tử quê hương đoạ đày!
Miền Nam nước mất một ngày
Quê hương dân tộc lầm than một đời
Hôm nay xin nguyện một lời
Chung tay góp sức, dẹp tan cộng thù
Hoàng Hạc