Đánh
giá một nhà phê bình, người ta hay tập trung vào chỗ người ấy thích ai và không
thích ai. Tuy nhiên, người ta quên: nhà phê bình, trước hết, là một người đọc,
và là người đọc, hắn cũng có quyền yêu thích hay không yêu thích một tác giả
hay một tác phẩm nào đó. Trước đây, khi viết cuốn Thi Nhân Việt Nam , Hoài Thanh
tỏ vẻ yêu thích đặc biệt đối với một số nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, v.v... Đó là cái quyền của ông. Sau này, trong cuốnThơ Miền Nam 1954-75,
Võ Phiến cũng tỏ vẻ yêu thích đặc biệt đối với một số người như Tô Thuỳ Yên,
Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Bắc Sơn, thậm chí, Giản Chi, Đỗ Tấn,
Trần Bích Tiên, v.v... Đó cũng là cái quyền của ông. Những cái quyền ấy cần
phải được tôn trọng.
Những
cái quyền ấy đầy tính chủ quan. Mà phê bình thì không thể không chủ quan.
Donald A. Stauffer có lần khẳng định: "Nhà phê bình không thể là một nhà
phê bình lý tưởng nếu hắn tự cho mình là tiếng nói vô ngã của chân lý; hắn cũng
không thể là nhà phê bình lý tưởng nếu mối quan tâm hàng đầu của hắn không phải
là tác phẩm nghệ thuật." Không phải ai cũng đồng ý với quan điểm ấy. Một
số người, như Northrop Frye, muốn loại trừ tính chất chủ quan bằng cách loại
trừ các loại phán đoán giá trị ra khỏi phê bình. Nhưng người ta không có cách
nào loại hết các phán đoán giá trị được: nó hiện diện ngay ở việc chọn lựa đề
tài và chọn lựa tư liệu. Đó là số mệnh của phê bình.
Tính
chất chủ quan làm phê bình vĩnh viễn không thể là một lời phán quyết chung thẩm
cho bất cứ một hiện tượng văn học nào cả. Mọi hành động phê bình đều là những
hành động cô đơn và bất định, ở đó, người ta biết là không có gì bảo hiểm chắc
chắn cho việc phát ngôn của mình, trừ kiến thức, kinh nghiệm và quan trọng hơn,
trực giác thẩm mỹ của mình.
Có
lẽ đây là điểm khác biệt chủ yếu giữa một phán đoán thẩm mỹ và các loại phán
đoán khác. Đánh giá ai đó có tội hay không có tội, chúng ta căn cứ vào điều
khoản này hay điều khoản nọ trong luật pháp, hoặc, đơn giản hơn, căn cứ vào
những nguyên tắc đạo lý phổ quát trong xã hội. Đánh giá một nhận định nào đó có
chính xác hay không, chúng ta có thể căn cứ vào luận lý học hoặc các dữ kiện
thu thập được từ thực nghiệm hay thực tế.
Còn
đánh giá cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học?
Chúng
ta không có một căn cứ nào vững chắc cả. Không thể căn cứ vào các nguyên lý,
các quy luật hay các khuôn mẫu trong lịch sử văn học bởi vì chúng chỉ hiện hữu
trong một không gian và một thời gian giới hạn nào đó mà thôi. Cũng không thể
căn cứ vào các thành tựu và các giá trị được xem là vĩ đại trong quá khứ và được
xem là những điển phạm trong lịch sử vì lý do đơn giản là, những thành tựu,
những giá trị và những điển phạm ấy là những gì mọi người cầm bút chân chính
đều muốn phủ nhận hoặc muốn vượt qua trong cuộc hành trình sáng tạo của chính
họ.
Thành
ra, trong thế giới văn học, chúng ta không thể nhân danh ai khác ngoài chính
mình. Nhân danh mình, chúng ta yêu tác phẩm này và ghét bỏ tác phẩm nọ. Trong
cuốn Thi nhân Việt Nam, khi cho bài "Ông đồ" là kiệt tác của Vũ
Đình Liên, "Gửi Trương Tửu" là kiệt tác của Nguyễn Vỹ, "Màu thời
gian" là kiệt tác của Đoàn Phú Tứ, hay khi cho lời văn của Xuân Diệu có
cái gì như chơi vơi, đằng sau câu thơ của Nguyễn Nhược Pháp dường như có một
tiếng cười khúc khích, đằng sau câu thơ của Huy Cận có một nỗi buồn rười rượi
và đằng sau câu thơ của Thâm Tâm thấp thoáng những nỗi bâng khuâng khó hiểu của
thời đại, v.v... Hoài Thanh cũng không nhân danh cái gì khác ngoài trực quan
của bản thân ông.
Và
chúng ta, khi đồng ý với những nhận định vừa nêu của Hoài Thanh, chúng ta cũng
chỉ nhân danh chúng ta mà đồng ý. Bất cứ khi nào chúng ta không nhân danh chính
mình mà lại nhân danh một thứ quyền lực nào đó, bất cứ là quyền lực gì, chẳng
hạn như danh tiếng hay uy tín của một trào lưu hay một bậc tiền bối, chúng ta
đều đi ra ngoài cơ chế sáng tạo và bị rớt vào cơ chế hành chánh của văn học, ở
đó, văn học đã bị xơ cứng thành những kiến thức phổ thông, và ở đó, chúng ta
không còn là những chủ thể cảm xúc và tư duy nữa mà chỉ là một đơn vị trong một
tập thể đã bị điều kiện hoá. Nói cách khác, ở đó, chúng ta hoàn toàn bị tha
hoá. Một cách đọc như thế thực chất là một sự phản bội lại bản chất của văn
học, một hình thức sinh hoạt văn hoá tồn tại trước hết là để con người trở về
với cái tôi của họ, với thế giới riêng tư và thầm kín của họ.
Phê
bình là chủ quan. Tuy nhiên, tính chất chủ quan ấy phải có giới hạn thì mới có
thể có đối thoại, và do đó, mới có thể có phê bình được. Cái giới hạn ấy chủ
yếu xuất phát từ hai yếu tố.
Thứ
nhất, đối tượng của phê bình: văn học. Một sự yêu thích chỉ có tính văn học khi
tác phẩm được đọc như một công trình văn học chứ không phải như bất cứ một thứ
gì khác, từ một phương tiện để tuyên truyền đến một phương tiện để giải trí.
Những sự lẫn lộn phạm trù như vậy thực chất là một biểu hiện của tính chất
thiếu chuyên nghiệp, nơi mọi ranh giới đều nhoà lẫn vào nhau: nhoà lẫn giữa văn
học và phi văn học, giữa phê bình và đàm tiếu.
Thứ
hai, mặc dù trong các phán đoán thẩm mỹ, người ta chỉ có thể nhân danh chính
mình, nhưng cái "mình" mà người ta nhân danh ấy thực chất bao giờ
cũng là một cái "mình" tập thể: nó là kết quả của vô số sự tương tác
trong quá trình giáo dục và xã hội hoá của từng cá nhân. Không ai có thể thực
sự đọc một mình. Đọc bao giờ cũng là cùng đọc với những người khác, trong đó có
vô số những người đã chết. Khi chúng ta đọc Truyện Kiều, chẳng hạn, chúng
ta luôn luôn "đọc chung" với Phạm Quý Thích, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà,
Phạm Quỳnh, Trương Tửu; hơn nữa, chúng ta còn "đọc chung" với cả
những tác giả ngoại quốc, từ những lý thuyết gia Nho học ở Trung Hoa đến các lý
thuyết gia thuộc các trường phái hiện thực, lãng mạn, phân tâm học, hiện sinh,
hiện tượng luận, Mác-xít ở Tây phương, v.v... Chính những mối quan hệ chằng
chịt này làm cho bất cứ cái đọc nào cũng có tính lịch sử, và tính lịch sử này,
đến lượt nó, trở thành một giới hạn của tính chủ quan trong phán đoán thẩm mỹ:
phán đoán ấy có thể được/bị đánh giá trên cơ sở một sự đối chiếu với những ý
kiến đã có.
Tính
chất chủ quan làm mọi lời phát biểu của nhà phê bình chỉ nên được xem như những
lời đề nghị, một hình thức tiến cử với công chúng và với lịch sử những tác phẩm
hắn xem là có giá trị và xứng đáng được bảo tồn. Tính chất tương đối trong
những sự chủ quan ấy làm nhà phê bình bị buộc phải đối diện với nhu cầu tăng
cường sức thuyết phục cho những phán đoán của mình: trong lúc không thể đoan
chắc về tính chính xác của những nhận định ấy, hắn phải tự chứng minh những
nhận định ấy là đúng đắn, ít nhất so với một phương pháp luận và một quan điểm
thẩm mỹ nào đó mà hắn đã lựa chọn. Điều này có nghĩa là nhà phê bình phải bạch hoá
quá trình cảm thụ và đánh giá của mình. Hắn không thể là kẻ nói theo kiểu
"thánh phán". Hắn phải có bổn phận, dưới hình thức này hoặc hình thức
khác, tự chứng minh cho các luận điểm của mình.
Hành
động tự chứng minh ấy là một biểu hiện của tinh thần trách nhiệm. Có thể nói
nhà phê bình chỉ vượt lên khỏi tư cách độc giả để thực sự trở thành nhà phê
bình khi ít nhiều chứng minh được những gì mình cho là hay, là đẹp. Một độc giả
bình thường, trong một lúc ngà ngà men rượu hay men tình, có thể cho một bài thơ
nào đó của Nguyên Sa là hay nhất Việt Nam , chẳng hạn. Không sao cả. Nhưng
một nhà phê bình thì khác. Bằng sự phân tích, nhà phê bình phải mô tả những cái
hay trong bài thơ ấy, và bằng sự so sánh, làm cho người đọc thấy được cái hay
ấy quả là một cái hay lớn, hơn nữa, lớn hơn hẳn những cái lớn khác.
Gắn
liền với những sự yêu thích có tính chất cá nhân, tất cả các công trình phê
bình đều, trước hết, là một sự phản ánh khẩu vị văn học (taste) của nhà phê
bình, sau đó, may ra, với một mức độ nào đó, mới là một sự phản ánh của tình
hình sinh hoạt văn học một thời đại. Gắn liền với tinh thần trách nhiệm, mọi
công trình phê bình nghiêm túc đều có tham vọng từ vương quốc chủ quan vươn tới
vương quốc khách quan, từ những cảm nhận xuất phát từ trực giác và kinh nghiệm
đến những phân tích mang tính khái niệm.
Đánh
giá một nhà phê bình, chúng ta không đánh giá ở chỗ hắn giống với những người
đọc bình thường, tức ở chỗ hắn thích hay không thích một tác giả, tác phẩm nào
đó. Đó là cái quyền của hắn, thuộc phạm vi cá nhân của hắn. Việc đánh giá một
nhà phê bình chỉ nên bắt đầu từ chỗ nhà phê bình ấy biến tác phẩm được mình yêu
thích thành một mô hình nghệ thuật, hơn nữa, còn có tham vọng thuyết phục người
đọc chấp nhận mô hình nghệ thuật ấy là một sự sáng tạo có giá trị; nói cách
khác, từ chỗ nhà phê bình biến cái yêu cái ghét của mình thành một thứ quan
điểm thẩm mỹ và có tham vọng biến quan điểm thẩm mỹ ấy thành một giá trị thẩm
mỹ có tính phổ quát. Lúc ấy, hắn đã vượt ra ngoài phạm vi cá nhân. Hắn đã xuất
hiện như một nhân vật công cộng (public figure).
Việc
đánh giá ở đây chủ yếu xoay quanh ba nội dung chính:
Thứ
nhất, việc phân tích và chứng minh cái hay, cái đẹp của nhà phê bình có đủ sức
thuyết phục hay không? Hắn khen một tác phẩm nào đó là hay? Được thôi. Nhưng
cái cách hắn chứng minh cái hay ấy ra sao, đó mới là điều quan trọng. Hắn thành
công nếu sau khi đọc xong, người đọc thấy tác phẩm ấy tự nhiên hay hơn hẳn, mới
hơn hẳn và sâu sắc hẳn; nếu người đọc thấy rằng việc đọc quả là một cuộc khám
phá thú vị và bổ ích, ở đó, họ bắt gặp những điều hoàn toàn bất ngờ trong lãnh
thổ của nghệ thuật và cái đẹp. Ngược lại, hắn sẽ thất bại thảm hại nếu đọc
xong, người đọc thấy tác phẩm ấy vẫn cũ mèm và thế giới thơ văn vẫn không rộng
thêm một chút xíu nào cả. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta cần cẩn thận: phần lớn
những gì có vẻ như giàu sức thuyết phục thường là những cái đã cũ, do đó, chưa
chắc đã có giá trị thực sự. Để kiểm tra tính thuyết phục của một luận điểm đôi
khi cần khá nhiều thời gian và cần một tầm nhìn rộng, bao quát cả một hay nhiều
trào lưu văn học trong một hay nhiều thời đại khác nhau, không những trong quá
khứ hay trong hiện tại mà cả trong hướng vận động của văn học từ hiện tại
chuyển đến tương lai. Nói cách khác, ở đây, khi đánh giá một sự đánh giá, người
ta không những cần kiến thức mà còn cần cả viễn kiến và sự nhạy bén nữa.
Thứ
hai, quan điểm thẩm mỹ nào làm nền tảng để dựa theo đó nhà phê bình đánh giá
cái hay và cái lớn của văn học? Không có một nhà phê bình nghiêm túc nào lại
không xuất phát từ một quan điểm thẩm mỹ nhất định. Chính quan điểm ấy làm cho
ý kiến của nhà phê bình tránh được nguy cơ trở thành bất nhất và rỗng tuếch.
Quan điểm ấy, một cách tự giác hay tự phát, thể hiện qua hai hình thức khác
nhau.
Một, những lời phát biểu trực tiếp dưới dạng khái niệm về văn học. Hình như hiếm có nhà phê bình nào lại không có những lời phát biểu trực tiếp như thế, hoặc thành bài riêng hoặc xen kẽ trong các bài phê bình. Ngay cả ở những nhà phê bình có khuynh hướng hoài nghi lý thuyết hay chống lại lý thuyết như hầu hết các nhà phê bình Việt Nam , chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp những đoạn ít nhiều mang tính lý thuyết như thế.
Hai,
quan điểm mỹ học thể hiện rõ hơn và đáng tin cậy hơn qua những tác giả hoặc tác
phẩm mà nhà phê bình yêu thích. Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh
lại nhiệt liệt khen ngợi thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương... hơn hẳn những người khác.
Cũng chắc chắn không
phải ngẫu nhiên mà Võ Phiến lại cảm thơ của một số người này mà lại không thể
cảm nổi thơ của một số người khác. Loại bỏ tất cả những lý do phi văn học, đằng
sau những sự lựa chọn ấy là những quan niệm khá nhất quán về thơ, về cái đẹp
trong thơ và về chức năng của thơ, cơ sở để tạo nên sự đồng điệu, và từ đó, của
sự ưu ái của họ. Đi sâu vào những quan niệm ấy, có khi chúng ta sẽ bắt gặp,
chẳng hạn, giữa Hoài Thanh và Võ Phiến, tuy có khá nhiều dị biệt trong văn
phong cũng như tư tưởng, lại có những tương đồng khá sâu sắc và bất ngờ khi họ
đối diện với thơ: cả hai đều là những nhà lãng mạn chủ nghĩa hồn nhiên và chân
thành. Đi sâu vào những quan niệm như thế, công việc phê bình phê bình có nhiều
hứa hẹn mở ra những khám phá thú vị hơn và nhất là, có cơ sở hơn: trong khi
chúng ta rất khó đánh giá một sự yêu thích thì chúng ta lại dễ dàng đánh giá một
quan điểm bởi vì, thứ nhất, nó thuộc phạm trù nhận thức, thứ hai, nó có tính
lịch sử, nhờ đó, chúng ta có thể tiến hành việc so sánh để nhận ra tính chất
đúng/sai và mới/cũ trong quan điểm ấy.
Cuối
cùng, điều chúng ta có thể làm và nên làm là đánh giá xem quan điểm thẩm mỹ của
nhà phê bình có gì mới lạ và có làm phong phú thêm cách hiểu của chúng ta về
văn học hay không? Chính câu hỏi thứ ba này không chừng mới là câu hỏi quan
trọng nhất. Nó phân biệt những công trình phê bình mang tính sáng tạo và những
sự nhai lại. Một công trình phê bình chỉ có thể được xem là có đôi chút giá trị
khi nó phát hiện một cái gì mới hoặc trong cách đọc hoặc trong tác phẩm được
đọc; những phát hiện mà trước đó chưa ai biết hoặc một số người đã biết nhưng
lại chưa tự giác hẳn về cái biết của mình. Ví dụ, không có công trình phê bình
nào về Truyện Kiều có thể được xem là có giá trị nếu nó chỉ lẩn quẩn với
việc chứng minh lại những kiến thức phổ thông; nếu nó không làm cho Truyện
Kiều có một diện mạo mới, khác với những gì chúng ta đã quen nghĩ; nếu nó
không giúp mở rộng vốn hiểu biết của chúng ta về Truyện Kiều, từ đó, giúp
mở rộng, dù chỉ một chút, địa dư của cái gọi là văn học.
Có
thể nói tầm vóc của công trình phê bình chủ yếu tuỳ thuộc vào tầm vóc của những
phát hiện ấy: phát hiện cái hay ở đơn vị câu, chữ khác với việc phát hiện cái
hay ở tổng thể của tác phẩm, và việc phát hiện cái hay của tác phẩm khác với
việc phát hiện một cách nhìn hoặc một góc độ nhìn để từ đó không những tác phẩm
được đề cập mà còn nhiều tác phẩm khác nữa tự nhiên trở thành khởi sắc và giàu
có hẳn.
Nói
tóm lại, đánh giá một nhà phê bình, chúng ta không thể không đọc những gì hắn
viết. Trong những gì hắn viết, chúng ta cần tôn trọng cái quyền yêu ghét chủ
quan, tức cái quyền thích tác giả này và không thích tác giả nọ, yêu tác phẩm
này và không yêu tác phẩm kia của hắn. Xâm phạm vào quyền cá nhân ấy bao giờ
cũng là một hành động thô bạo. Điều chúng ta cần làm và có thể làm là: thứ
nhất, phê bình các luận điểm của hắn; thứ hai, phê bình việc chứng minh các
luận điểm ấy của hắn; cuối cùng, thứ ba, phê bình cái hệ mỹ học mà hắn bênh vực
hay khen ngợi. Theo tôi, nếu biết dừng lại ở những giới hạn như thế, chúng ta
có thể bảo vệ được văn hoá phê bình, giúp phê bình giữ được tính chất trí thức
và trách nhiệm của nó, đồng thời, trong đời sống, giảm thiểu được vô số những
cuộc cãi cọ lằng nhằng vừa vô duyên vừa vô ích.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.