Anh
Stephen thân mến,
Tôi vừa nhận được bài báo của anh, đã đọc ngay và bây giờ, viết thư này.
Trước
hết, chân thành cảm ơn anh về tất cả những gì anh đã làm cho công cuộc chung.
Tôi nhắc lại một lần nữa rằng nếu như trước đây, cuộc chiến tranh Mỹ-Việt để
lại cho hai dân tộc nhiều mất mát và hối tiếc thì ngày nay, tôi hy vọng chúng
ta có một cuộc hợp tác lâu dài, cần thiết, căn để và tốt đẹp. Vì lẽ giản dị,
giờ đây, quyền lợi của chúng ta đồng nhất và những nghiệm sinh trong quá khứ đã
bảo đảm cho chúng ta hiểu nhau hơn, có thể đi đến những thỏa thuận một cách dễ
dàng hơn.
Bài viết của anh công phu, nhiều điểm đánh trúng vào tâm lý cộng đồng người Việt trong nước, trước hết là các điều khoản bảo đảm cho tài sản của họ. Đây là một hiện thực vô cùng phức tạp mà nếu không giải quyết một cách khéo léo, chúng ta sẽ không lôi kéo được dân chúng. Muốn hay không, phải hiểu rằng một số đông cán bộ, sĩ quan cấp trung của quân đội cũng như công an được hưởng lợi từ sau tháng 10 năm 1954 và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nói cụ thể, họ được phân phối nhà ở, mà số nhà này giành giật từ những gia đình làm việc cho các chính quyền cũ. Nếu bây giờ đòi hỏi tất cả phải trả lại thì họ sẽ co cụm lại với bọn cầm quyền cho dù chúng thối nát và bán nước.
Đây
là lý do đầu tiên tôi phản ứng với chính sách của đảng Việt tân. Các bài viết
của họ nhan nhản khẩu hiệu: “Giả nhà cho chúng ông!”. Cũng vì chính lý do này
mà tôi đã tuyệt giao với toàn bộ gia đình nhà tôi ở Mỹ. Ông bác tôi là nhà thầu
lớn. Tài sản của ông mất cho cộng sản không thể kể hết, ngoài tiền vàng và kim
cương ở ngân hàng còn có bốn ngôi nhà nhiều tầng và các loại máy giá hàng triệu
đô-la dùng trong việc xây đập chắn nước. Tôi không thể làm hả lòng mọi người
nếu không đòi lại được số gia sản đó. Nhưng tôi biết chắc chắn ấy là điều bất
khả. Anh và tôi, những người tranh đấu cho dân tộc của mình, vì lợi ích của dân
tộc, chúng ta phải hy sinh tình riêng. Như thế, tôi nhắc lại, chúng ta phải tạo
ra sự an toàn về mặt tâm lý cho đám đông và bài viết của anh đã đạt được mục đích
ấy. Phổ biến một cách rộng rãi và công khai là hợp lý.
Thế kỉ 20 là thế kỉ tiêu biểu cho các cuộc cướp giật khổng lồ. Ở tất cả
các nước chậm tiến, đặc biệt là châu Phi, bọn vua chúa, bọn tướng lĩnh, bọn độc
tài đội lốt dân chủ... đều thả sức vơ vét tài nguyên lẫn tài sản quốc gia rồi
sau rốt chạy trốn khỏi biên thùy, sống vương giả với tiền ăn cắp. Lũ cầm quyền
cộng sản cũng không nằm ngoài mưu tính ấy. Chúng đã chuẩn bị cho cuộc tháo chạy
từ lâu. Thế nên, sự vô hiệu lực một cách triệt để các hành vi cướp bóc này là
hành động đầu tiên lấy lại lòng tin cho dân chúng. Đồng thời đó cũng chính là
lời cảnh cáo cho những người cầm quyền tiếp theo.
Điều tối quan trọng giờ đây là phải tìm được các biện pháp thực thi tối ưu để có được một sự đổi thay.
Sự đổi thay này, tôi xin nhắc lại, là vô cùng khẩn cấp, cho cả các anh và cho cả chúng tôi.
Việc anh nêu tên 61 đảng viên ký kiến nghị là việc nên làm, sự khích lệ đáng kể
với cộng đồng người Việt trong nước. Nhưng không có sự khích lệ nào đủ làm cho
một đám đông đứng dậy, phất cờ khởi nghĩa. Con số 61 là con số quá bé nhỏ so
với trên 90 triệu dân. Nó là con số Khởi đầu (Initial), không phải con số Phát
triển (Développé) và Hiệu Ứng (Efficacité). Nó đòi hỏi phải có sự Hỗ trợ mạnh,
thậm chí bạo liệt. Tuy nhiên, số người này có thể coi là Hạt nhân cho một sự
Vận hành (Déclencher) thuộc về Lực lượng bề mặt (Apparence). Đặc biệt là các
nhân vật có tư cách kêu gọi và huy động binh lính như tướng Nguyễn trọng Vĩnh,
tướng Lê duy Mật.
Thứ nữa, các nhân vật có thể có ảnh hưởng rộng rãi đối với tầng lớp trung gian vì họ đã từng tham gia vào bộ máy cầm quyền, có thể nêu vài tên như Đào xuân Sâm, Trần đức Nguyên, Vũ quốc Tuấn, Tô Hòa, Lữ Phương, Hồ Uy Liêm, Huỳnh tấn Mẫm, Đỗ gia Khoa, Đào công Tiến, Nguyễn hữu Côn...
Thứ nữa, các nhân vật có thể có ảnh hưởng rộng rãi đối với tầng lớp trung gian vì họ đã từng tham gia vào bộ máy cầm quyền, có thể nêu vài tên như Đào xuân Sâm, Trần đức Nguyên, Vũ quốc Tuấn, Tô Hòa, Lữ Phương, Hồ Uy Liêm, Huỳnh tấn Mẫm, Đỗ gia Khoa, Đào công Tiến, Nguyễn hữu Côn...
Hoan nghênh, cổ võ tinh thần phản kháng của họ nhưng chớ nên quá tin vào năng
lực cũng như phạm vi tác động của họ. Dù chỉ là Lực lượng bề mặt, họ cũng chưa
thể trở thành một lực lượng cần và đủ. Theo tôi biết, khởi sự, họ định cổ võ
2000 người ra đảng. Họ cũng đã thu thập được lời cam kết của 100 người quyết
định kí kiến nghị. Nhưng đến phút chót, 39 người rút lại chữ kí, nên chỉ còn
61. Và hai nghìn người hứa ra đảng cũng rút lại với lý do: “Làm thế cũng chẳng
được tích sự gì”. Tôi không ngạc nhiên.
Từ ba chục năm nay, tôi chưa từng nghĩ đến khả năng cách mạng hoa hồng, hoa nhài hay bất cứ thứ hoa gì gì đó ở Việt nam. Bởi vì, ở những xứ mà bóng ma Khổng tử đã ngự trị, không có trí thức, chỉ có quan lại. Quan lại, nói nôm na là lũ chó quanh quẩn trong sân của kẻ cầm quyền. Con số 61 người kể trên là những người yêu nước mãnh liệt và tinh thần quốc gia đã khiến họ thắng lướt được sự tòng phục cố hữu đối với kẻ cầm quyền chính thống.
Nói cách khác, họ là những người đang tập sự làm Trí thức, cho dù họ có kiến thức (Lettré). Châu Á chưa bao giờ có một đội ngũ trí thức (L’intelligentsia) theo quan niệm của châu Âu. Cũng vì thế, người phương Tây thường có sự hiểu nhầm, hoặc Những quan niệm lệch lạc khi đánh giá xã hội châu Á. Người Mỹ cũng như dân châu Âu tin rằng một khi giai cấp trung lưu hình thành thì cùng với họ, tư tưởng dân chủ cũng hình thành và phát triển theo.
Suy nghĩ của các anh dựa trên mô hình cuộc cách mạng tư sản phương Tây. Giai cấp tư sản nảy sinh trong lòng chế độ phong kiến và trở thành kẻ đào mồ cho giai cấp quý tộc cũ. Theo lô-gic ấy, các anh tin rằng giai cấp trung lưu hình thành trong các xã hội chậm phát triển sẽ trở thành lực lượng đối nghịch, sẽ đào thải dần dần bọn cầm quyền cũ và thay thế họ. Các anh nhầm lẫn một cách trầm trọng. Bởi, có những quy luật chung cho nhân loại và có những điều KHÁC BIỆT THẬM CHÍ ĐỐI NGHỊCH phân cách họ. Không hẳn cái gì đúng với phương Tây cũng đúng với phương Đông.
Peter Navarro
Ông Peter Navarro, tác giả cuốn “Chết dưới tay Trung Cộng” đã nhận định một
cách chính xác rằng giai tầng trung lưu Trung cộng có thể ăn Big-Mac và đi xe
hơi Mercedes nhưng không hề có một chút khái niệm nào về dân chủ. Để làm sáng
tỏ hơn ý kiến của ông Peter Navarro, tôi phải nói rằng giai cấp trung lưu ở các
nước cộng sản là đám nha lại may mắn trong nghề con buôn, hoặc liên kết với con
buôn. Hoặc là, vế thứ hai, đám con buôn may mắn trong cuộc kết hôn với bọn cầm
quyền. Muốn trở thành kẻ có tài sản, cuộc “ Làm tình” này là không thể tránh
được. Giai cấp mới giàu phải chia chác lợi nhuận và được tận hưởng sự bảo trợ
của những kẻ trong tay có súng. Vả chăng, đa số bọn mới giầu cũng là bọn nằm
trong Thái ấp (Fief), Lãnh địa của cường quyền.Thế nên, hy vọng giai tầng này đứng lên chống lại “Liên minh vàng ngọc” của họ là điều khờ khạo. Giai cấp tư sản phương Tây chống lại tầng lớp quý tộc vì họ là con đẻ của một nền văn minh mà mấy ngàn năm trước đã từng có Nền dân chủ thành A-ten. Giai cấp ấy được hình thành trong một quá trình thông thường, tiệm tiến và hoàn toàn phù hợp với quy luật kinh tế. Quá trình này hoàn toàn khác quá trình tạo dựng lớp trung lưu trong các xã hội ở giai đoạn cuối của chủ nghĩa cộng sản bao gồm ba đặc tính sau đây:
1 – Về mặt danh nghĩa chính thức là cộng sản độc quyền. Nhà nước cụ thể là
nhà nước cảnh sát.
2 - Trên thực tế các chính phủ này ngoài tính cực quyền còn mang tính
Mafia đột khởi, khi mà hệ thống cộng sản chủ nghĩa trên toàn cầu đã tan rã, lý
thuyết cộng sản Utopie đã sụp đổ. Và đặc biệt: Đạo đức Utopie cũng sụp đổ theo.
Điều này vô cùng hệ trọng vì các chính thể này từng thống trị dân chúng trong
một thời gian dài với thứ Đạo đức Utopie (nối tiếp thuyết Đức trị, Lễ trị của
Khổng tử), cho dù thực chất đó chỉ là thứ đạo đức giả, nhưng với hệ thống tuyên
truyền theo kiểu Hitler, với chính sách ngu dân kèm theo một cách ráo riết, thứ
Đạo đức Utopie này đã từng có thời hiệu nghiệm. (Tôi xin phép được giải thích
thêm về nhóm từ Đạo đức Utopie. Phải thừa nhận rằng không thiếu những trí thức
cánh tả ở phương Tây bị quyến rũ bởi Tính chất tuẫn đạo của chủ nghĩa cộng sản
nên đã tình nguyện đi theo nó. Chỉ đến khi thực tế đập vào mắt họ, họ mới thức
tỉnh. Có thể đơn cử nhà văn Pháp Andrei Gide làm ví dụ. Hoặc như gián điệp Phạm
xuân Ẩn ở Việt nam. Đó là những người giữ một tư cách cá nhân trong sạch, không
tham tiền, không tham gái, thậm chí có thể hiến dâng toàn bộ tài sản cá nhân
cho cách mạng. Ông Phạm xuân Ẩn, chỉ đến khi ra Hà nội, tiếp xúc trực tiếp với
bộ máy cầm quyền cộng sản mới vỡ mộng mà thôi.)
Phạm xuân Ẩn
3- Các thuộc tính của Phong kiến phương đông chưa bao giờ hết hiệu lực trong
các xã hội này.
Thế nên, áp dụng những quy luật lịch sử thuộc về ba thế kỉ trước ở phương Tây với các xứ chậm tiến ở phương Đông giờ đây là hoàn toàn lầm lạc.
Nói như vậy, phải chăng không hề có lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Trung cộng?
Có!
Thiên an môn là ví dụ điển hình.
Nhưng tỉ lệ vài ngàn người trên một tỉ rưỡi dân Trung hoa là một thứ muối bỏ biển. Cũng như giờ đây ở Việt nam, con số 61 người kí kiến nghị yêu cầu nhà cầm quyền thay đổi chính trị trên 90 triệu dân Việt nam là một thực tế đáng nhục và đáng buồn. Các cuộc biểu tình chống Tầu ở Việt nam được thực hiện do sinh viên và một số ít những người có hiểu biết nhưng chưa kịp, hoặc chưa có điều kiện để trở thành giai cấp trung lưu, có tài sản. Nói tóm lại, họ là thứ quả quá hiếm hoi và họ chưa thể trở thành một lực lượng đáng tin cậy.
Vì sao?
Vì tư tưởng dân chủ chỉ có thể hình thành khi có con người dân chủ, mà loại người đó chưa là cư dân chính thức trên các vùng đất này.
Thế nên, áp dụng những quy luật lịch sử thuộc về ba thế kỉ trước ở phương Tây với các xứ chậm tiến ở phương Đông giờ đây là hoàn toàn lầm lạc.
Nói như vậy, phải chăng không hề có lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Trung cộng?
Có!
Thiên an môn là ví dụ điển hình.
Nhưng tỉ lệ vài ngàn người trên một tỉ rưỡi dân Trung hoa là một thứ muối bỏ biển. Cũng như giờ đây ở Việt nam, con số 61 người kí kiến nghị yêu cầu nhà cầm quyền thay đổi chính trị trên 90 triệu dân Việt nam là một thực tế đáng nhục và đáng buồn. Các cuộc biểu tình chống Tầu ở Việt nam được thực hiện do sinh viên và một số ít những người có hiểu biết nhưng chưa kịp, hoặc chưa có điều kiện để trở thành giai cấp trung lưu, có tài sản. Nói tóm lại, họ là thứ quả quá hiếm hoi và họ chưa thể trở thành một lực lượng đáng tin cậy.
Vì sao?
Vì tư tưởng dân chủ chỉ có thể hình thành khi có con người dân chủ, mà loại người đó chưa là cư dân chính thức trên các vùng đất này.
Bây giờ, để hiểu rõ Tinh thần Trung cộng, làm con tính đơn giản sau:
1- Hãy so sánh con số những người tham gia biểu tình đòi dân chủ ở Bắc Kinh với con số những sinh viên Trung hoa, được ăn học ngay trên đất Mỹ nhưng hoàn toàn bị điều khiển bởi tinh thần quốc gia và chủ nghĩa Đại Hán. Đám người “trẻ trung”này đã phản ứng ra sao để bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc vĩ đại của họ?
2 - Hãy so sánh con số những người Trung hoa quyết tâm đi theo nền dân chủ với
đám Tin tặc mũ đỏ, Hắc khách đến từ lục địa của Mao trạch Đông. Theo tư liệu
của ông Peter Navarro thì Tin tặc Mũ đỏ của Trung cộng đã thâm nhập vào NASA,
lầu Năm góc và Ngân hàng thế giới, đã tấn công Phòng công nghiệp và An ninh của
bộ thương mại Mỹ dữ dội đến mức Bộ phải vứt bỏ hàng trăm máy tính bị hỏng, đã
copy sạch ổ cứng của dự án Chiến đấu cơ kiêm Oanh tạc cơ F-35 của hãng Lokheel
Martin... Hiện nay Trung quốc có hàng trăm trường đào tạo tin tặc để dạy ma
thuật cho những phù thủy trẻ tuổi, một lực lượng khổng lồ đã, đang và sẽ tấn
công toàn thế giới.
3 - Hãy điều tra xem trong đám dân Tầu tị nạn chính trị trên đất Mỹ, có bao nhiêu phần trăm dissident thật sự và bao nhiêu phần trăm Lính Nằm vùng? Đừng quên rằng Khổ nhục kế là sáng tạo của người Trung cộng chứ không phải của người Mỹ. Từ nhiều thế kỉ nay, chiến thuật đó đã được sử dụng đi sử dụng lại một cách linh hoạt và vô cùng hiệu quả.
Vậy thì, với sự thực không thể bác bỏ như đã nêu, có thể kết luận rằng tư tưởng dân chủ đủ sức mạnh chinh phục hay chính chủ nghĩa Đại Hán mới là Tư tưởng Lớn (Noble idéal), Tư tưởng Chính thống (Idée orthodoxe de vieille souche), tư tưởng thống trị (La pensée écrasante) trên tuyệt đại đa số gần một tỷ rưỡi dân Trung cộng hiện nay?
Thêm một ví dụ nữa, trong cuốn sách của ông Peter Navarro có nhiều đoạn nói về
cảnh những công nhân Trung quốc bị bóc lột thậm tệ, sẵn sàng ngủ gục bất cứ nơi
đâu sau giờ làm việc. Phía sau những nhận xét này là mối thương tâm. Tôi hiểu
cảm xúc ấy vì nó là điều hiển nhiên trước những cảnh đau lòng. Thế nhưng, cũng
chính những người công nhân khốn khổ ấy sẽ sẵn sàng trở thành đội quân tàn bạo
nhất khi được điều động đi xâm chiếm các lãnh thổ khác. Đó là một thực tế không
thể chối bỏ. Đó cũng là MỘT HIỂN NHIÊN. Họ là hậu duệ của những tên lính Trung
hoa thời xưa, chỉ vì húp thêm một bát cháo đã bị Tào Tháo hạ lệnh chém ngang
lưng nhưng cũng chính họ là bọn côn đồ khát máu và bọn vơ vét tham tàn nhất một
khi vượt khỏi biên thùy. Hãy nhìn lại những chùa chiền bị cướp bóc và phá hủy ở
Tây Tạng. Đâu phải bọn vua chúa Bắc Kinh thực hiện các hành vi man rợ ấy, đó là
dân con của chúng, những người Trung hoa không dám chống cường quyền nhưng
phóng chiếu toàn bộ bản năng hiếu sát lẫn sự tham tàn, độc ác của họ lên đầu
“Thiên hạ”. Ngoài biên thùy, Vua chúa và Dân đen Trung hoa trở thành khắng khít
vì hai bên có một mục tiêu chung. Chiến lược ĐỔ LỬA RA NGOÀI là chiến lược có
từ ngàn năm, một thứ Màn thầu đặc biệt của dân Tầu. Điều này, chắc chắn người
Việt chúng tôi biết rõ hơn người Mỹ. Cần phải đưa thêm một con số: Trong cuộc
thăm dò ý kiến của bộ trưởng bộ quốc phòng Trung cộng cách đây không lâu, trên
95 phần trăm dân Trung quốc nhất trí: “Đánh lũ chó Việt nam để thu hồi lãnh
thổ!” Chỉ có trên 4 phần trăm người không trả lời hoặc không đồng ý. Như thế đủ
hiểu, sức mạnh Truyền thống lớn đến đâu.
Thế nên, Stephen thân mến, tôi nói điều này mà không sợ làm anh phật ý, nếu anh
có nghĩ đến Cách mạng Hoa nhài, Hoa hồng, Hoa tuy-líp... như một cách vui chơi,
hoặc làm đẹp ngôn từ thì tôi đồng ý. Nếu là một ý nghĩ nghiêm chỉnh (như niềm
sung sướng nghiêm chỉnh và chân thành của dân Pháp, những người từng nhảy cỡn
lên vào Mùa xuân Arabe) thì xin anh bỏ ý nghĩ ấy đi. Bởi vì, đó chính thực là
một thứ Utopie. Ngày xảy ra cuộc cách mạng Hoa nhài, khi nghe đám dân Pháp hò
hét, tôi có nói với họ: “Chớ nên cười quá sớm! Đó là kinh nghiệm của tôi”. Đến
khi thành quả cuộc cách mạng rơi vào tay đảng Islam, họ đã phải thú nhận:
“Chúng ta mừng hụt”. Tôi lại xin cung cấp cho anh thêm một tư liệu của năm vừa
rồi, theo điều tra thì trên 70 phần trăm những người Tunisi làm việc trên đất
Pháp từ vài thập kỉ nay bỏ phiếu cho đảng của Islam. Điều đó có nghĩa gì? Hố
thẳm trong óc não con người là nơi sâu nhất, khôn dò. Tunisi là nước có đường
biển thông thoáng, là đất nước cởi mở nhất với phương Tây trong toàn khối
Arabe, hàng nghìn năm có quan hệ thương mại với châu Âu, vậy mà phản ứng của họ
còn bảo thủ đến như thế, huống hồ Việt nam, mảnh đất bị kẹp dưới nách của Trung
hoa, hàng nghìn năm sống trong thứ ao tù nước đọng? Với một thực tiễn đáng buồn
như vậy, làm sao có thể tin được một sự chuyển hóa “nhung lụa, hòa bình” ở Việt
nam?
Vì cái thực tiễn ấy, tôi xin nhắc lại với anh, chỉ có một con đường có thể đưa đến thay đổi ở Việt nam. Con đường ấy không có hoa hồng, hoa nhài và các thứ hoa khác. Còn muốn bước chân đến vườn hoa thì phải chờ kết cục ở một ngày nào đó, khi con Rồng phương Bắc bị đâm nát. Nếu Bắc Kinh còn phẳng lặng, ắt các Kinh đô nước khác phải tan tành, bởi vì Trung hoa đã được tạo dựng trên xác chết của các dân tộc khác, biên giới của họ hiện nay rộng gấp năm lần đất đai gốc là vì nó thâu gộp các xứ sở bị họ tàn sát và đồng hóa. Cái phương cách sinh tồn này đã thấm đẫm trong nếp nghĩ, nếp sống của người Hán và trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của họ. Chủ nghĩa Đại Hán không thể ra đời ở một xứ như Thụy sĩ hoặc Nay-uy. Chủ nghĩa Đại Hán phải ra đời ở một miền đất mà các cư dân sống trên đó phải được vũ trang bằng những thứ vũ khí đặc biệt về mặt tinh thần. Tính cách đặc thù này là một HẰNG SỐ, nhưng trong một thời gian khá dài, nó đã được ngụy trang, chôn cất tạm, hoặc giấu diếm, bởi vì trong thời gian này, người Trung hoa cùng khốn, họ rơi vào cảnh nô lệ, bần hàn. Hiện nay, Trung hoa đã trở thành cường quốc trên toàn cầu, do đó tính cách Trung hoa đang được khai triển với một ý chí mãnh liệt, thậm chí điên rồ.
Tôi xin dẫn vài ví dụ:
1_ Ông Trần ngọc Vượng, từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa Trung cộng cho biết: Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng (Tô tem sói), tác giả Khương Nhung của Trung cộng xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung cộng là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh, thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, bình nguyên và cao nguyên. Người Trung cộng đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung cộng in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ Tính chiến đấu, tinh thần Quật cường của đồng bào họ.
1_ Ông Trần ngọc Vượng, từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa Trung cộng cho biết: Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng (Tô tem sói), tác giả Khương Nhung của Trung cộng xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung cộng là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh, thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, bình nguyên và cao nguyên. Người Trung cộng đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung cộng in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ Tính chiến đấu, tinh thần Quật cường của đồng bào họ.
2_Theo lời kể của một phóng viên Pháp vừa đi New York về thì hiện nay, tại New York, có Restaurant Trung cộng treo tấm biển: Không có nĩa! Anh hãy nhờ cảnh sát ở
3- Những thập kỉ trước đây, người nhập cư Trung hoa ở Paris được tiếng là cần cù, nhũn nhặn. Nhưng
vào thập kỉ cuối cùng, từ năm 2000 trở lại đây, thái độ của họ đã đổi thay. Khi
tiền của người Tầu đủ mua các công ty, các hãng lớn thì họ cũng mua luôn từng
khu phố để làm nơi cư ngụ. Cuộc mua bán này diễn ra với quy mô rộng lớn và rầm
rộ khiến dân Pháp lo ngại. Dù chính phủ không có chỉ thị chính thức, nhiều
chính quyền quận có phản ứng. Theo tôi biết, vào những năm đầu thế kỉ mới,
chính quyền quận 3 (khu Marrais) ở Paris
cố gắng hạn chế cuộc mua nhà đất của người Tầu nhưng không có hiệu quả. Ngược
lại, giờ đây khi ông Tầu nào muốn mua một cửa hàng, mà chủ nhà không muốn bán,
họ thuê du côn đến gây sự, đập phá, quấy rối dưới các hình thức khác nhau và
sau rốt, chủ nhà đành phải đóng cửa hàng, bán lại. Nước Pháp suy đồi đến mức
khi một sinh viên Việt nam viết bài tố cáo chính sách xâm lấn biển của Trung
hoa thì liền bị giáo sư phụ trách gọi lên yêu cầu chấm dứt ngay hành vi phản
kháng, nếu không sẽ bị buộc thôi học. Tôi có nói chuyện này với một bà giáo sư
đại học Paris
7, bà ấy đáp lại: “Chúng tôi có một nước Pháp của De Gaule và một nước Pháp của
Pétain. Tôi ngờ rằng nước Pháp thời hiện tại là nước Pháp của Pétain! ”
Chủ nghĩa quốc gia là thứ khát vọng mãnh liệt nhất, kinh hoàng nhất trong lịch sử loài người. Nếu như trước đây hơn nửa thế kỉ, thanh niên Đức bị cuốn vào chủ nghĩa phát-xít của Hitler như bông bồ công anh cuốn theo chiều gió, thì giờ đây các thế hệ Trung quốc sẽ còn bị cuốn vào chủ nghĩa Đại Hán với một sức mạnh điên rồ trăm lần hơn nữa. Bởi vì, chủ nghĩa phát-xít Đức là khát vọng quốc gia mới tạo lập, còn chủ nghĩa Đại Hán là thứ cây cổ thụ, sau những năm tàn úa giờ đây xanh tươi trở lại, nguồn sống của nó được dung dưỡng thâm sâu gấp bội phần. Thêm nữa, Trung cộng là phương Đông, phương Đông muôn vàn bí hiểm với phương Tây. Chúng tôi đây, những người Việt nam khốn khổ hàng nghìn năm chiến đấu chống lại họ, ăn uống, phong tục cận kề mà còn không hiểu được họ, huống hồ các anh, những người Mỹ? Vì thế, mới có câu: “Thâm như Tầu”.
Hoặc là “Bụng người
Tầu, còn lâu mới biết”. Nhớ lại thời cách đây vài thập kỉ, khi mỗi tuần, người
ta giết hàng nghìn con trâu rồi mang móng sang bán bên kia biên giới, không ai
hiểu vì sao. Dân chúng còn thì thào: ” Người Tầu mua móng trâu làm thuốc chống
ung thư”. Rồi sau đó vài tháng, lại có chiến dịch đào rễ hồi, rễ quế bán cho “
các thầy thuốc Tầu”. Ba năm sau, dân các vùng biên giới đói vàng mắt, miền xuôi
phải đem gạo và ngô cứu tế, lúc ấy mới rõ người Tầu không chế thuốc men nào
hết, họ chỉ có một mục đích là phá sạch kinh tế các tỉnh phía bắc Việt nam mà
thôi.
Người Mỹ các anh, bắt một ông tổng thống ra trước tòa xin lỗi dân chúng, chỉ vì ông ta trót nhảy lên bụng một cô thư kí Nhà trắng rồi nói dối, nghĩa là các anh coi sự trung thực là phẩm tính cốt yếu mà bắt buộc mọi người, trước hết là các nhà lãnh đạo phải có. Với tâm thế ấy, các anh làm sao hiểu được người Tầu, một dân tộc đã viết ra cuốn Phản kinh?...
Để anh rõ chi tiết, tôi xin trích vài dòng của người đang dịch cuốn Phản kinh ra tiếng Việt, giáo sư Trần ngọc Vượng:
... “Cuốn thứ hai tôi cũng đang dịch mang tiêu đề Phản kinh, tức là Cẩm nang, bí kíp của những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là: Lịch đại thống trị giả - Mật như bất ngôn- Dụng như bất tuyên kì (Tạm dịch: Bộ kì thư mà kẻ thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật - Làm theo nhưng không nói ra, không công bố). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt, về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến cái tên của tác giả cũng là điều kì bí. Tôi mua bộ sách này lần đầu vào năm 1998, lúc tôi dạy ở đại học Bắc kinh. Đọc tên tác giả, tôi hơi ngỡ ngàng vì chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghĩ mình là người nước ngoài, học tiếng Hán có hạn chế, ai dè hỏi các giáo sư Trung cộng cũng không ai biết. Hai ba hôm sau, kỉ niệm 100 năm đại học Bắc kinh, gần 10 xe chở các chuyên gia đại học Bắc Kinh ra Đại lễ đường Nhân dân, giáo sư Phó thành Cật cầm chữ trên tay đi hỏi cũng không ai biết. Cuối cùng, ông về tra Trung quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi của chữ ghép. Phiên âm Hán-Việt phải đọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong thư tịch Việt nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ!
Bộ sách được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt
một phần nào đó ra ngoài nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc
cuốn sách đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó được in ra, mà lại in ở nhà
xuất bản Nội Mông cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết đó cũng là loại
bí kíp kì thư. Kiểu bí kíp ấy, Trung quốc rất có truyền thống nên tôi muốn giới
thiệu để chúng ta, nhất là giới chính trị, hiểu họ hơn....”
(Trích cuộc phỏng vấn của báo Người Đô thị với giáo sư Trần ngọc Vượng)
(Trích cuộc phỏng vấn của báo Người Đô thị với giáo sư Trần ngọc Vượng)
Ông Trần ngọc Vượng đã gõ cửa một loạt các cơ quan nhà nước có chức năng và trách nhiệm nghiên cứu chính trị và văn hóa. Không nơi nào trợ cấp cho ông dịch cuốn cẩm nang quý báu này. Vì giới cầm quyền cộng sản Việt nam muốn giữ lòng trung với Mẫu quốc. Dịch Cẩm nang, tức phơi bầy bộ mặt Lang sói của kẻ cầm quyền phương bắc, cũng có nghĩa gián tiếp tố cáo thân phận nô bộc và phản bội tổ quốc của chính họ. May thay, hiện nay cuốn sách vẫn đang được dịch, nhờ tài trợ của một doanh nhân.
Cuốn Phản kinh là bằng chứng đầy thuyết phục cho tính cách độc đáo Trung hoa. Một hiện tượng cũng độc đáo tính Trung Hoa không kém là nhân vật Dịch Nha. Dịch Nha là đầy tớ của Tề Hoàn Công, một ông vua thời Đông
Một ngày, Tề Hoàn Công đùa bỡn Dịch Nha, nói rằng:
Ta đây, món ngon vật lạ trên rừng, dưới biển đều đã nếm đủ. Chỉ có mỗi thịt người là chưa biết đến mà thôi.
Ngay hôm sau, Dịch Nha dâng cho vua một mâm thịt ngào ngạt hương thơm. Tề Hoàn Công thưởng thức một cách khoái trá, sau đó hỏi:
- Thịt gì mà ngon vậy?
Dịch Nha đáp:
- Thịt người.
Tề Hoàn Công hốt hoảng:
- Lấy đâu ra?
Dịch Nha đáp:
- Bẩm chúa công, đó là thịt đứa con trai cả của thần, nó vừa đầy ba tuổi. Vì chúa công chưa bao giờ được dùng thịt người nên thần thịt nó cho chúa công xơi.
Quả nhiên, Dịch Nha trở thành sủng thần, cùng với Thụ Điêu và Khai Phương, khuynh loát triều đình sau khi Quản Trọng chết. Đây là lời của Tề Hoàn Công nói với Quản Trọng khi ông tể tướng này can vua chớ nên gần gũi bọn nịnh thần:
Dịch Nha làm thịt con cho tôi ăn, thế là yêu tôi hơn yêu con, còn nghi ngờ gì nữa?
Một kẻ, vì cuộc đầu cơ chính trị, tự tay giết con đẻ của mình, lại tự tay xào nấu thành món ngon tuyệt vời để dâng vua nếm, kẻ đó là sản phẩm độc nhất vô nhị trên toàn cõi đất. Ngoài Trung cộng, không một dân tộc thứ hai nào trên hành tinh này có được. Thời xưa, các bộ tộc man di có tục ăn thịt người, và ngày nay, cũng có những Kẻ ăn thịt người do Hiện tượng Lại giống, hoặc bọn ăn thịt người do kích thích của ma túy, những kẻ còn duy trì bản năng dã thú ở mức độ quá cao. Nhưng đám người man dã này không thể so được với Dịch Nha vì Dịch Nha Chống lại Tính người không phải do bản năng dã thú mà do sự tính toán kĩ lưỡng. Vì Mưu lợi mà có thể Hủy diệt tính người, đó là đặc sản Trung cộng.
Ta đây, món ngon vật lạ trên rừng, dưới biển đều đã nếm đủ. Chỉ có mỗi thịt người là chưa biết đến mà thôi.
Ngay hôm sau, Dịch Nha dâng cho vua một mâm thịt ngào ngạt hương thơm. Tề Hoàn Công thưởng thức một cách khoái trá, sau đó hỏi:
- Thịt gì mà ngon vậy?
Dịch Nha đáp:
- Thịt người.
Tề Hoàn Công hốt hoảng:
- Lấy đâu ra?
Dịch Nha đáp:
- Bẩm chúa công, đó là thịt đứa con trai cả của thần, nó vừa đầy ba tuổi. Vì chúa công chưa bao giờ được dùng thịt người nên thần thịt nó cho chúa công xơi.
Quả nhiên, Dịch Nha trở thành sủng thần, cùng với Thụ Điêu và Khai Phương, khuynh loát triều đình sau khi Quản Trọng chết. Đây là lời của Tề Hoàn Công nói với Quản Trọng khi ông tể tướng này can vua chớ nên gần gũi bọn nịnh thần:
Dịch Nha làm thịt con cho tôi ăn, thế là yêu tôi hơn yêu con, còn nghi ngờ gì nữa?
Một kẻ, vì cuộc đầu cơ chính trị, tự tay giết con đẻ của mình, lại tự tay xào nấu thành món ngon tuyệt vời để dâng vua nếm, kẻ đó là sản phẩm độc nhất vô nhị trên toàn cõi đất. Ngoài Trung cộng, không một dân tộc thứ hai nào trên hành tinh này có được. Thời xưa, các bộ tộc man di có tục ăn thịt người, và ngày nay, cũng có những Kẻ ăn thịt người do Hiện tượng Lại giống, hoặc bọn ăn thịt người do kích thích của ma túy, những kẻ còn duy trì bản năng dã thú ở mức độ quá cao. Nhưng đám người man dã này không thể so được với Dịch Nha vì Dịch Nha Chống lại Tính người không phải do bản năng dã thú mà do sự tính toán kĩ lưỡng. Vì Mưu lợi mà có thể Hủy diệt tính người, đó là đặc sản Trung cộng.
Cũng như vì
muốn tăng cường thể lực, họ có món óc khỉ sống của bà Thái hậu Từ hy. Cái đặc
tính này bộc lộ trên nhiều phương diện. Ngay trên các địa bàn thuần túy tình
cảm và đạo đức, người Trung hoa cũng có lối thể hiện độc đáo của họ. Ví dụ, có
thể bàn về tình hiếu đễ. Dân Tầu vẫn tự hào được dạy dỗ bởi đức thánh Khổng và
thường khoa trương các món hàng Truyền thống của họ. Tuy nhiên, chính ngay trên
cái địa hạt đầy tinh thần đạo đức này, cũng có thứ gì đó khiến ta Dựng lông
tóc, sởn da gà. Xin anh hãy đọc lại chuyện “Vì mẹ nguyện chôn con”, in trong
cuốn Thái Ất tử vi năm Quý Tỵ 2003 do Vương Dung Cơ luận giải (P.O Box 9585 – Fountain
Valley . CA 92728-9585). Nội dung được ca ngợi: Muốn
có đủ thực phẩm nuôi mẹ, chồng yêu cầu vợ đào huyệt để chôn sống đứa con sáu
tuổi để bớt đi một miệng ăn! Hình mẫu này, được tuyên truyền, phổ biến như món
Dầu cháo quẩy trong các quán bình dân.
Thế giới của các anh được định vị bằng các luật. Trung hoa chưa bao giờ sống theo luật, cho dù có cả một trường phái mang tên Hàn phi tử. Luật chỉ làm cho vua và vì thế, đổi thay theo một cái gật đầu hay vẫy tay của vua. Vả lại, từ hàng nghìn năm nay, nền văn hóa vĩ đại của Trung hoa vốn được nuôi dưỡng bằng nhân cách đúp: Người ta có những tư tưởng đẹp đẽ và cao siêu của Lão và Trang để mơ mộng và ngâm ngợi (để nhìn lên cung trăng) và giờ đây, để làm lóa mắt đám trí thức ngoài biên giới. Họ có một hệ thống đạo đức dưới nhãn hiệu Khổng Khâu lẫn Mạnh tử để rao giảng, dậy dỗ (để rọi sáng đường đi dưới ánh mặt trời), và giờ đây, để chiêu dụ tâm lý những cư dân thuộc các nền văn minh khác. Nhưng cuộc sống thường hằng diễn ra cả ban ngày lẫn ban đêm lại được nuôi dưỡng bằng món Bánh bao chấm máu người, và vì là cuộc sống thường hằng nên con người cứ việc tuân theo mà không ai nói năng gì hết. Nhà văn Lỗ Tấn, một cách vô thức đã phản ánh trung thành tính cách dân tộc của ông. Lịch sử Trung hoa đã được nuôi dưỡng với món BÁNH BAO CHẤM MÁU đặc biệt ấy, và nó sẽ tiếp tục phát triển với cùng nguồn dinh dưỡng đậm đà bản tính dân tộc, cho dù hình thức biến thái đi.
Với tất cả những gì đang diễn ra hiện nay, tôi nghĩ các anh không còn nhiều thời gian nữa. Tôi không tin rằng các anh chần chừ cho đến lúc tất cả đám dân Trung hoa buôn đồ cổ ở New York tuyên bố thẳng thừng là thành phố này từ nay thuộc về họ, và rằng đội quân thứ năm của Hoàng đế Trung hoa nhất tề đứng lên, khẳng định các anh, những người mang dòng máu bình thường của nhân loại, còn họ, những kẻ mang Máu Rồng, nên họ có quyền thu hồi lại lãnh thổ vốn thuộc về người da đỏ, những tổ tiên có cùng sắc da vàng như họ (Tôi nhắc lại ý chính trong một bài báo của người Trung quốc trên Internet cách đây gần một thập kỉ). Không có sự điên rồ nào được coi là điên rồ hoặc là đáng kinh ngạc với người Trung hoa, một thứ người đã thịt con đẻ của mình như thịt gà hay thỏ, hạng người ấy không gì không làm được.
Tôi tin rằng các anh sẽ tìm được biện pháp hiệu lực trong thời gian ngắn nhất,
trước khi mọi sự trở nên quá muộn màng. Dân tộc các anh là dân tộc tiêu biểu
cho khát vọng tự do của nhân loại, các anh có đủ phẩm chất và tư cách để Hành
động.
Hành động, để cứu chính nước Mỹ trước hết, và sau đó, cứu cả các dân tộc có nguy cơ bị nghiền nát dưới bánh xe của bọn Tần thủy Hoàng thời hiện đại. Đó chính là Lý tưởng cho người Mỹ ngày hôm nay.
Chúc anh chị vui và khỏe. Khi nào có dịp ghé Pháp thì nhớ báo cho tôi.
Dương thu Hương.
Paris, ngày 30 tháng 10 năm 2014
Hành động, để cứu chính nước Mỹ trước hết, và sau đó, cứu cả các dân tộc có nguy cơ bị nghiền nát dưới bánh xe của bọn Tần thủy Hoàng thời hiện đại. Đó chính là Lý tưởng cho người Mỹ ngày hôm nay.
Chúc anh chị vui và khỏe. Khi nào có dịp ghé Pháp thì nhớ báo cho tôi.
Dương thu Hương.
Paris, ngày 30 tháng 10 năm 2014
*****
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.