Nhà
văn Võ Phiến
Trong
một cuộc tán gẫu về văn học quanh một bàn nhậu ở Việt Nam , dịp tôi về thăm nhà vào cuối
năm 2000, một người nghe đâu cũng làm thơ hỏi tôi:
"Nghe
nói hình như anh có viết một cuốn sách về Võ Phiến?"
Tôi
gật đầu xác nhận. Người ấy nói tiếp:
"Tôi
không hiểu tại sao anh lại mất thì giờ như vậy. Tôi thấy Võ Phiến viết xoàng
lắm."
Tôi
kiên nhẫn:
"Anh
có đọc Võ Phiến nhiều không?"
"Không.
Trước năm 1975, tôi chỉ đọc vài bài viết của ông ấy trên báo thôi."
"Còn
sau năm 1975 thì sao?"
"Không.
Tôi không đọc gì của ông ấy cả."
Tôi
nói cho qua chuyện:
"Sau
năm 75, qua Mỹ, Võ Phiến viết nhiều lắm. Mới đây ông ấy cho in bộ sách về văn
học miền Nam
dày đến 7 tập."
Nhà
thơ nọ bỗng lên giọng, gay gắt:
"Tôi
thấy ổng chỉ viết linh tinh."
Tôi
ngạc nhiên:
"Ủa,
anh đọc rồi hả?"
Nhà
thơ nọ đáp, đầy tự tin:
"Chưa.
Tôi không có bộ sách đó. Nhưng tôi có đọc mấy câu Võ Phiến phê bình Vũ Khắc
Khoan được trích trong một bài báo đăng trên tờ gì đó ở Mỹ."
Thành
thực mà nói, tôi không quan tâm đến việc nhà thơ vô danh nọ không đồng ý với
tôi hay coi thường Võ Phiến. Một phần, qua buổi trò chuyện, tôi không đánh giá
cao sự hiểu biết cũng như khả năng phán đoán của nhà thơ ấy cho lắm; phần khác,
quan trọng hơn, cho dù sự bất đồng ấy đến từ một người thông minh và nhạy cảm
hơn, tôi cũng cho là chuyện bình thường. Trong phạm vi văn học, có lẽ chỉ có
những điều vớ vẩn nhất, tức những điều ngay cả những người không biết đọc và
không biết viết cũng biết, mới hy vọng có thể được mọi người đồng ý. Tuy nhiên,
tôi vẫn không ngớt ngạc nhiên về thái độ của nhà thơ ấy, một thái độ thô bạo và
ngây thơ lạ thường. Thô bạo ở chỗ sẵn sàng công kích bất cứ ai nói khác điều
mình nghĩ, và ngây thơ ở chỗ cả tin vào một vài câu trích dẫn bâng quơ đâu đó
đến độ suồng sã nhảy xổ ra tranh luận về những cuốn sách anh chưa hề đọc.
Thái
độ thô bạo và ngây thơ như vậy, tôi ngờ là xuất phát từ một sự ngộ nhận về phê
bình và dẫn đến hậu quả là làm cho công việc phê bình các hoạt động phê bình cứ
loanh quanh mãi trong vòng đàm tiếu vu vơ và vô bổ.
Không
những nhảm nhí, nó còn phản văn học.
Chúng
ta đã có chữ phản khoa học để chỉ thái độ thiếu tôn trọng các giá trị khoa học
và đi ngược lại các phương pháp khoa học. Chữ phản văn học tôi dùng ở đây nhằm
chỉ thái độ coi rẻ các đặc trưng cơ bản của văn học, đối xử với văn học như một
cái gì không phải là văn học.
Đặc
trưng cơ bản của văn học là gì? Có nhiều cách trả lời tuỳ theo những quan điểm
khác nhau, tuy nhiên, có một điểm hầu như mọi trường phái phê bình hiện đại đều
chấp nhận, đó là: tính không thể giản lược và không thể thay thế được của các
tác phẩm văn học.
Với
các nhà hình thức luận ở Nga, những kẻ xem nghệ thuật là kỹ thuật như tựa đề
một bài viết nổi tiếng của Viktor Shklovsky "Art as Technique", mục
tiêu chính của nghiên cứu văn học là tính văn chương; yếu tính của tính văn
chương nằm ở những sự vi phạm vào các thói quen để ngôn ngữ được lạ hoá; nơi
thể hiện chính của tính văn chương là các thủ pháp nghệ thuật; và nơi tồn tại
của các thủ pháp ấy chỉ có thể là văn bản. Với các nhà Phê Bình Mới, tác phẩm
văn học là một cái gì có tính tự trị: để hiểu nó, người ta phải tiếp xúc trực
tiếp với nó, căn cứ vào những yếu tố hình thức trong văn bản, chứ tuyệt đối
không được đi qua bất cứ một thứ trung gian nào khác, kể cả tác giả (điều họ
gọi là nguỵ luận về ý định, intentional fallacy) và độc giả (điều họ gọi
là nguỵ luận về hiệu ứng, affective fallacy). Với các nhà cấu trúc luận,
văn học không có gì khác hơn là ngôn ngữ; ngôn ngữ không có gì khác hơn là các
quan hệ; và các quan hệ ấy không có gì khác hơn là cách cấu trúc của văn bản.
Sau này, các lý thuyết văn học hậu hiện đại đều phủ nhận tính khép kín và tính
tự trị của văn bản, đều nhấn mạnh vào tính liên văn bản, và đều tin là bên
trong hoặc đằng sau văn bản bao giờ cũng có sự hiện diện của vô số những yếu tố
khác, từ ngôn ngữ đến lịch sử, văn hoá, chính trị, xã hội, phái tính, chủng
tộc, v.v... Tuy nhiên, để tiếp cận với những yếu tố ấy, con đường duy nhất mà
nhà phê bình phải đi qua là chính cái văn bản mà họ phê bình.
Văn
bản văn học dù được xem là một chỉnh thể thống nhất và tự tại như chủ trương
của các nhà Phê Bình Mới, hình thức luận và cấu trúc luận hoặc như một bức khảm
của những trích dẫn (mosaic of quotations) như chủ trương của các nhà giải cấu
trúc luận, hậu cấu trúc luận, hậu thực dân luận, nữ quyền luận, đều là một cái
gì không thể thay thế được.
Như
thơ, chẳng hạn. Đến với thơ là phải đến với văn bản thơ. Khi bị tóm tắt, tức là
khi không còn là cái văn bản nguyên thuỷ của nó, thơ không còn là thơ nữa. Nó
chỉ còn lại một ít sự kiện và ý tưởng trong khi ai cũng biết thơ không phải chỉ
là sự kiện và ý tưởng. Bên cạnh sự kiện và ý tưởng, thơ còn có ngôn ngữ với
những cách thức tổ chức đặc biệt của nó, từ việc khai thác các âm, vần, thanh
điệu, cú pháp đến cách xây dựng hình tượng, đến cả cách trình bày trên trang
giấy, v.v... Đó là hình hài của thơ, là da thịt của thơ, là nhan sắc của thơ,
là... gần như tất cả thơ. Chính vì vậy, trước đây các nhà Phê Bình Mới đã cực
lực phản đối việc diễn xuôi (paraphrase) thơ. Họ cho đó là điều bất khả.
Mà
bất khả thật. Làm sao người ta có thể chuyển ra văn xuôi mà vẫn giữ được cái
nét độc đáo trong hai câu thơ quen thuộc này của Xuân Diệu: "Ngẩng đầu
ngắm mãi chưa xong nhớ / Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya"? Thế cụm từ
"chưa xong nhớ" bằng bất cứ một hình thức diễn đạt nào khác, chẳng
hạn,"chưa nguôi nhớ" nghe chừng hợp lý hơn, hương vị của câu thơ chắc
chắn sẽ bị phai nhạt rất nhiều. Bởi vì chính chữ "xong" ấy đã làm cho
chữ "nhớ" mới hẳn: từ một động từ diễn tả tâm tình nó trở thành một
động từ diễn tả động tác, có tính vật lý và đầy sức nặng. Diễn ra văn xuôi,
người ta có thể giữ được sự liên tưởng đến hai câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch
ngày xưa "Cử đầu vọng minh nguyệt / Đê đầu tư cố hương", từ đó giữ
được tính liên văn bản và tính xuyên thời gian của văn học; có thể giữ được cái
ấn tượng lửng lơ khi đằng sau động từ "ngắm" không hề có một đối
tượng gì cả; có thể giữ được cái ám ảnh về không gian và thời gian bằng cách
lặp lại ở đầu câu trên hai động từ liên quan đến không gian (ngẩng / ngắm) và
lặp lại ở cuối câu dưới hai danh từ liên quan đến thời gian (đêm / khuya); có
thể giữ được cái cách dùng một mùi hương để diễn tả ý niệm thời gian; và có thể
giữ được sự nhấn mạnh vào yếu tố thời gian ấy bằng cách dùng thật nhiều các phụ
từ như: mãi, chưa, xong, rồi, đã, v.v... Nhưng làm sao người ta có thể giữ được
cái cảm giác mang mang và man mác ở câu trên, khi để diễn tả động tác ngắm và
nỗi niềm nhớ, tác giả đã dùng thật nhiều vần trắc và nguyên âm mở (ngẨng đẦu
ngẮm mÃi chưa xong nhớ) và cái cảm giác sâu lắng, thoáng chút bùi ngùi và hắt
hiu ở câu dưới, khi để diễn tả nỗi cô đơn trong khuya khoắt, tác giả đã dùng
thật nhiều vần bằng và nguyên âm khép (hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya)?
Thơ
như thế mà văn xuôi thì cũng như thế. Một cuốn tiểu thuyết, chẳng hạn, không
phải chỉ là một cốt truyện để có thể tóm tắt được một cách dễ dàng. Dùng một
cốt truyện, được viết bởi hai nhà văn khác nhau, chúng ta có thể có hai tác
phẩm khác nhau một trời một vực. Thử tước bỏ tất cả cách diễn tả độc đáo và sắc
sảo của Nguyễn Tuân hay của Phạm Thị Hoài, chỉ giữ lại cốt truyện trong các
truyện ngắn của họ, chúng sẽ còn là cái gì? Chắc chắn chúng không khác các
truyện ngắn trong các tờ báo học trò bao nhiêu cả.
Thử
tước bỏ các chi tiết nho nhỏ trong bộ truyện Sông Côn mùa lũ của
Nguyễn Mộng Giác, chỉ giữ lại cốt truyện về những bước thăng trầm trong gia
đình giáo Hiến hay về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn hay về bối cảnh chính trị và xã
hội vào nửa sau thế kỷ 18, bộ truyện ấy sẽ còn lại cái gì? Chẳng còn cái gì cả.
Bởi nét đặc sắc của Sông Côn mùa lũ không nằm trên cái cấu trúc vĩ mô
gắn liền với các biến động lớn lao của lịch sử, tức những mùa nước lũ, mà nằm ở
những chi tiết nho nhỏ, có vẻ như thứ yếu, liên quan đến những đám bèo trôi
giạt theo các dòng nước lũ ấy. Mất chúng, bộ truyện dường như mất tất cả. Trong
vô số các chi tiết nho nhỏ ấy, thử nêu lên một ví dụ: dòng nước. Sông Côn
mùa lũ mở đầu bằng hình ảnh một dòng sông, lúc gia đình giáo Hiến lếch
thếch bồng bế nhau đi tị nạn, và kết thúc cũng bằng một dòng sông, sông Bến
Ván, nơi dừng chân của mẹ con An. Nó mở đầu bằng dòng kinh nguyệt đầu tiên của
An và kết thúc cũng bằng dòng kinh nguyệt của Thái, con gái của An. Giữa những
dòng chảy ấy là dòng chảy điên cuồng của đất nước và của số mệnh từng người:
những cuộc “hành kinh” của lịch sử.
Nên
lưu ý là hình ảnh về những dòng chảy ấy, dưới nhiều hình thức và với nhiều mức
độ khác nhau, bàng bạc trong hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác chứ
không riêng gì trong Sông Côn mùa lũ. Tên các tác phẩm của ông: Nỗi
băn khoăn của Kim Dung, Bão rớt, Tiếng chim vườn cũ,Qua cầu gió bay, Đường
một chiều, Ngựa nản chân bon, Xuôi dòng,Mùa biển động (5 tập),
và Sông Côn mùa lũ (4 tập), trong đó, trừ tập tiểu luận đầu và tập
truyện thứ hai, các tựa sách khác đều sử dụng một trong ba hình tượng: gió,
nước và con đường. Nhiều nhất là hình tượng nước. Trong tám tựa sách, ba tựa
sau cùng, tất cả đều xuất hiện sau năm 1975, đều liên quan đến nước. Tựa cũ của Đường
một chiều là Bóng thuyền say cũng liên quan đến nước. Qua
cầu gió bay cũng thấp thoáng hình ảnh của nước. Ám ảnh về nước thật ra là
ám ảnh về sự chuyển động. Hai hình tượng còn lại, gió và con đường, cũng gắn
liền với ý niệm về chuyển động ấy.
Toàn
là những sự chuyển động bất thường và ngoài ý muốn: đường thì một chiều, biển
thì động, sông thì đang mùa lũ, gió thì bay, bay dữ đến độ thành bão rớt. Sự
say mê đối với các chuyển động, thật ra, không có gì mới: nó đã có ít nhất từ
thời phôi thai của tiểu thuyết. Sự say mê đối với các chuyển động bất thường và
ngoài ý muốn cũng không mới: đó là sự say mê chung của hầu hết các nhà văn hiện
thực. Tuy nhiên, ở phần lớn các nhà văn hiện thực, sự say mê đối với các chuyển
động, nếu là chuyển động xã hội, thường dẫn đến cảm hứng phê phán, nếu là
chuyển động lịch sử, thường dẫn đến cảm hứng sử thi với những bức tranh hoành
tráng, ở đó, người đọc có thể nhìn thấy những nhân vật cao hơn hẳn đời thường;
ở Nguyễn Mộng Giác thì niềm say mê đối với các chuyển động xã hội chỉ dẫn đến
những cảm hứng nhân đạo và niềm say mê đối với các chuyển động lịch sử chỉ dẫn
đến một cái nhìn mang đầy tính bi kịch.
Người
bị ám ảnh nhiều về con đường cũng là người viết cuốn Ngựa nản chân bon;
người bị cuốn hút bởi những hình tượng như biển động, mùa nước lũ cũng lại là
tác giả của cuốn Xuôi dòng; người say mê Kim Dung, nhà văn chuyên viết
truyện chưởng đầy tính bạo động lại chú ý nhất, ở Kim Dung, một khía cạnh ít
bạo động nhất: nỗi băn khoăn... Tính chất chuyển động, do đó, cứ như gắn
liền với tính chất mỏi mệt; tính chất dữ dội lúc nào cũng song song với một cái
gì như thể ngao ngán.
Nguyễn Mộng Giác
Nghịch
lý ấy thể hiện rất rõ trong phong cách của Nguyễn Mộng Giác: thích những đề tài
lớn nhưng trong các đề tài lớn ấy lại chỉ chú ý đến các chi tiết nhỏ; thích
lịch sử, nhưng trong lịch sử, chỉ xoáy vào các khía cạnh đời thường; thích các
anh hùng, nhưng ở các anh hùng, chỉ tập trung ngòi bút vào những khoảnh khắc
yếu đuối; thích tả phụ nữ ở cái mốc tuổi dậy thì, nhưng ở tuổi dậy thì, lại
dừng lại ở một dấu ấn ít thơ mộng nhất: kinh nguyệt.
Có
thể nói, tất cả các nhân vật của Nguyễn Mộng Giác đều là những nạn nhân. Những
thanh niên trí thức ở Huế một thời ồn ào và hung hãn với giấc mộng anh hùng
trong Mùa biển động, cuối cùng, cũng chỉ trở thành một đám nạn nhân nhếch
nhác của lịch sử. Ngay nhân vật Quang Trung trong Sông Côn mùa lũ cũng
không hẳn là một anh hùng. Đậm nét nhất trong hình ảnh nhân vật Quang Trung của
Nguyễn Mộng Giác không phải là một võ tướng xông pha giữa trận địa hoặc một vị
vua đầy quyền lực mà chỉ là một kẻ hay thao thức trong đêm khuya, hay băn khoăn
trong lòng, hay ngập ngừng trong giọng nói, hay thoáng vẻ bối rối trên khuôn
mặt, và hay tần ngần trong mỗi bước đi. Có cảm tưởng Quang Trung cũng chỉ là
một nạn nhân của lịch sử: lịch sử xô ông tới, đẩy ông lên những đỉnh cao, và
cuối cùng, thật bất ngờ, làm cho ông biến mất. Quang Trung như thế, các bà vợ
của Quang Trung cũng như thế. Cứ thử đọc lại đoạn Nguyễn Mộng Giác tả cảnh Ngọc
Hân đi gặp hoàng hậu, vợ chính của Quang Trung. Hai người đàn bà quyền uy nhất
nước thời bấy giờ không khác hai người đàn bà bình thường bao nhiêu cả: họ cũng
bối rối, cũng cảm thấy nhỏ nhoi và bơ vơ khi đối diện với nhau, và cũng yếu ớt
vô cùng: người thì đầy hoang mang, phải dựa vào bạn; kẻ thì phải ôm con chặt
vào lòng cho thêm tự tin. Có thể nói, ngòi bút của Nguyễn Mộng Giác chỉ phát
huy hết sự tinh tế khi dừng lại ở những bức tranh nho nhỏ và tội nghiệp như
thế. Khi phải tả những sự lớn lao và dữ dội, ông thường dùng biện pháp lướt,
tức chỉ vẽ thoáng qua, thật nhanh, hoặc có khi phải dựa dẫm vào người khác,
hoặc các sử liệu hoặc một tác phẩm của ai đó cùng đề tài. Bởi vậy, nếu bỏ qua
các chi tiết có vẻ như nằm ngoài mạch truyện chính, bộ truyện Sông Côn mùa
lũ cũng như cả Mùa biển động sẽ không còn là gì cả.
Tôi
dùng Nguyễn Mộng Giác để làm ví dụ là nhằm để chứng minh một luận điểm: ngay ở
những nhà văn mà tài năng chủ yếu là ở cách kể chuyện thì các tác phẩm của họ
cũng không thể bị giản lược được.
Đó cũng là sự khác biệt giữa các tác phẩm sáng tác và các tác phẩm phê bình hay lý luận. Các tác phẩm thuộc loại sau có thể bị giản lược. Dù vậy, việc giản lược ấy phải được tiến hành với một số điều kiện nhất định, trong đó, điều kiện quan trọng nhất là phải tôn trọng tính hệ thống của lập luận, nghĩa là, thứ nhất, không quá tập trung vào những chi tiết nhỏ nhặt trong những câu văn khai triển hoặc đẩy đưa; thứ hai, không tách một từ hoặc một nhóm từ ra khỏi câu văn và không tách câu văn ra khỏi mạch văn của nó để suy diễn hoặc xuyên tạc. Hơn nữa, ngay cả khi việc giản lược ấy được thực hiện một cách cẩn thận và bởi một người có uy tín lớn thì nó cũng không thể thay thế hoàn toàn cho cái văn bản mà nó giản lược. Lý do đơn giản là bất cứ sự giản lược nào cũng đều là một sự diễn dịch (interpretation); mà bất cứ sự diễn dịch nào cũng đều mang dấu ấn chủ quan, xuất phát từ tầm hiểu và tầm nhìn của người diễn dịch. Bởi vậy, để nhận định một cách nghiêm túc về một công trình phê bình hay lý luận nào đó, điều kiện tiên quyết là phải tiếp cận với văn bản: đó là cái tuyệt đối không thể bị thay thế.
Cũng
có thể nói một cách khái quát hơn: chỉ có một con đường duy nhất để tiếp cận
với văn học, từ sáng tác đến phê bình và lý luận văn học, đó là qua văn bản.
Một cuộc thảo luận về văn học, dưới hình thức viết hay hình thức nói, chỉ có
thể nghiêm túc khi nó bắt đầu với việc đọc văn bản. Thái độ bất chấp văn bản
bao giờ cũng là một thái độ phản văn học.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.