Tôi
chỉ mong mỏi là các thế hệ sau ở nước ngoài là đều biết nói, biết đọc Tiếng
Việt thì không có gì hạnh phúc hơn cả.
Cho
dù sống ở đâu nhưng có lẽ nếu ai mang trong mình dòng máu Việt, hay đặc biệt
được ít nhất một lần sống trong không khí những ngày Tết thực sự, thì đều mong
ngóng và chờ đợi tới dịp lễ này. Tuy nhiên, dường như chỉ có tới dịp Tết, hai
tiếng Việt Nam
mới được nhắc tới nhiều nhất và không khí Việt mới trở nên tưng bừng, rộn ràng,
và rõ nét hơn bao giờ hết. Nhưng có một người, dù là Tết Nguyên Đán hay ngày
thường, dù là trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai, trong suốt hơn 40 năm
định cư và sinh sống ở Châu Âu, vẫn luôn dành không ít thời gian để cống hiến
cho Việt Nam qua những công trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam đầy tâm huyết,
qua những cuốn sách ghi lại những chuyến hành trình dọc miền đất nước, và qua
những bài viết chứa đựng những trăn trở, nỗi niềm rằng liệu những thế hệ Việt
trong tương lai có thể giúp bảo tồn những nét văn hóa như những thế hệ hiện giờ
đang làm hay không. Ðó là nữ văn sĩ Mathilde Tuyết Trần.
Bà
Mathilde trước khi đi du học
Cô
nữ sinh học ban Văn chương Triết học của trường Gia Long cách đây hơn 40 năm đã
trở thành một trong số ít nữ sinh Việt Nam đầu tiên du học tại Cộng hòa Liên
bang Đức, theo ngành khoa học kinh tế. Vào thời điểm nước Đức vẫn phân chia Tây
Đức và Đông Đức, trong số 1000 sinh viên ở Tây Đức thì có 80 nữ sinh viên rải
rác trên các đại học toàn Tây Đức và chỉ có vỏn vẹn ba nữ sinh viên Việt Nam.
Trong khi đa số những nữ sinh khác học hóa học, chỉ có mình nữ sinh Mathilde
Tuyết Trần chọn học kinh tế. Khi được hỏi về quyết định du học Đức, bà Mathilde
Tuyết Trần nói:
“Trước hết tôi xin kính chào Hồng Hoa và xin kính chào thính giả của đài Voice ofAmerica . Xin
chúc tất cả một năm mới 2013 cũng như năm Quý Tỵ mọi sự tốt lành và hạnh phúc.
Ở Việt Nam tôi học chương trình Pháp-Anh, dù tôi không biết một chữ tiếng Đức
và phải học tiếng Đức cấp tốc trong vài tháng để thi vào trường nhưng vì hoàn
cảnh nên sau khi sang Pháp, sang Bỉ, thì tôi lại sang Đức. Nước Đức thời ấy
không bắt đóng học phí, việc học hoàn toàn miễn phí, đó là lý do lớn nhất tại
sao tôi sang Đức. Nước Đức cũng có trợ cấp cho sinh viên cho nên qua Đức học đỡ
được nhiều nỗi lo và bớt được nhiều khó khăn.”
Khởi đầu học về ngành xã hội, bà Mathilde Tuyết Trần cho biết khi chuyển sang học khoa học kinh tế thì khó khăn lớn nhất của bà là toán cao cấp và toán thống kê nhưng cuối cùng bà cũng vượt qua được. Nhưng tại sao bà lại chọn cho mình một hướng đi hoàn toàn mới mẻ và khác biệt như vậy? Bà nói:
“Cái thích cá nhân của mình là một việc, nhưng hoàn cảnh thực tế lại là một việc khác. Lúc tôi đi học, thì lúc đó là nước mình là đang có chiến tranh, cho nên cái vấn đề xã học lúc ấy lùi lại một tí tại vì ngày nào cũng thế, chúng tôi ngồi theo dõi tin tức chính sự ở Việt Nam, cho nên khi ấy cái chú ý về kinh tế, chính trị nổi hơn lên. Lúc ấy tôi đã chọn ưu tiên học về kinh tế. Sau khi học xong, đi làm cũng thế. Thời gian, trách nhiệm, và bổn phận không cho mình cái khả năng chèo hai ba cái thuyền cùng một lúc.”
Vượt qua những năm tháng đầy vất vả khi phải cân bằng giữa học tập và làm thêm, cộng thêm những khó khăn về ngôn ngữ khi tiếng Đức không hề dễ học, bà đã tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế quản trị tại trường Đại học Kỹ thuật Aachen và công tác một thời gian dài trong lĩnh vực tài chính, nhân sự của chính quyền thành phố Cologne, Đức. Từ những trải nghiệm với tư cách là một phụ nữ đạt được thành quả lớn như vậy trong thời gian trước, bà đã chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn cho phụ nữ khi đó:
“Trước hết tôi xin kính chào Hồng Hoa và xin kính chào thính giả của đài Voice of
Khởi đầu học về ngành xã hội, bà Mathilde Tuyết Trần cho biết khi chuyển sang học khoa học kinh tế thì khó khăn lớn nhất của bà là toán cao cấp và toán thống kê nhưng cuối cùng bà cũng vượt qua được. Nhưng tại sao bà lại chọn cho mình một hướng đi hoàn toàn mới mẻ và khác biệt như vậy? Bà nói:
“Cái thích cá nhân của mình là một việc, nhưng hoàn cảnh thực tế lại là một việc khác. Lúc tôi đi học, thì lúc đó là nước mình là đang có chiến tranh, cho nên cái vấn đề xã học lúc ấy lùi lại một tí tại vì ngày nào cũng thế, chúng tôi ngồi theo dõi tin tức chính sự ở Việt Nam, cho nên khi ấy cái chú ý về kinh tế, chính trị nổi hơn lên. Lúc ấy tôi đã chọn ưu tiên học về kinh tế. Sau khi học xong, đi làm cũng thế. Thời gian, trách nhiệm, và bổn phận không cho mình cái khả năng chèo hai ba cái thuyền cùng một lúc.”
Vượt qua những năm tháng đầy vất vả khi phải cân bằng giữa học tập và làm thêm, cộng thêm những khó khăn về ngôn ngữ khi tiếng Đức không hề dễ học, bà đã tốt nghiệp thạc sĩ Kinh tế quản trị tại trường Đại học Kỹ thuật Aachen và công tác một thời gian dài trong lĩnh vực tài chính, nhân sự của chính quyền thành phố Cologne, Đức. Từ những trải nghiệm với tư cách là một phụ nữ đạt được thành quả lớn như vậy trong thời gian trước, bà đã chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn cho phụ nữ khi đó:
Nhà văn Tuyết Trần (người
thứ hai từ trái sang) thăm đồi chè của gia đình ông Trần Văn Thái, xã Tân Cương,
T.P Thái Nguyên (Thái Nguyên)
“Thực
tình mà nói, một ngày chỉ có 24 tiếng, sức người cũng chỉ có giới hạn, cho nên
là có đôi lúc tôi cảm thấy tôi hoàn toàn kiệt sức. Nói chung phụ nữ còn bị xã
hội thử thách nhiều, ngay cả ở Châu Âu cũng thế. Cho nên khi thấy và khi biết
có những phụ nữ xuất sắc, nhất là phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học,
tri thức thì tôi rất mừng. Cái việc phụ nữ mình biết nhiều ngoại ngữ,
giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của mình, bền bỉ, kiên nhẫn, khéo léo, đó là
những đức tính thuận lợi của mình, của người phụ nữ. Khó khăn là mình phải có
một cái gì xuất sắc hơn người khác thì mình mới tìm được công ăn việc làm, vì
họ vẫn ưu tiên cho người dân của nước sở tại và những ứng viên nam.
Ở Đức có khi là phụ nữ phải cam kết miệng, điều này họ không thể viết trong văn bản được, đó là không sinh đẻ trong mấy năm đầu làm việc, vì gia đình, con cái cũng là một thử thách cho phụ nữ. Tôi nhớ là lúc ấy, hai câu hỏi căn bản mà các bạn đồng học nữ với tôi thời ấy đó là, đơn giản lắm: Lập gia đình lúc nào? Có con khi nào, khi đi học hay khi đi làm?
Cho nên người phụ nữ mà gọi là một cổ hai tròng, một mặt phải dành hết sức lực, trí tuệ để bảo đảm công ăn việc làm, sự tiến bộ của mình trong nghề nghiệp, một mặt phải lo toan cho chồng, cho con vui khỏe, hạnh phúc, đó là hai gánh nặng và trách nhiệm rất lớn.”
Bất chấp những khó khăn, bà Mathilde cho biết những năm tháng công tác trong lĩnh vực tài chính, kinh tế, đảm nhận những trọng trách lớn, đã giúp bà có một cái nhìn thẳng vào nhiều vấn đề sự kiện, cũng như hiểu được ít nhiều mặt trái của các vấn đề sự kiện. Bà nói rằng đằng sau một con mắt văn chương xã hội mang ít hay nhiều tính chất thơ mộng, thì bà có một con mắt khác, một con mắt phân tích khoa học thực tế, cân nhắc, và suy nghĩ. Với những vốn sống và trải nghiệm đa dạng được tích lũy đã đóng góp một phần lớn vào công việc viết sách hiện giờ của bà.
Ở Đức có khi là phụ nữ phải cam kết miệng, điều này họ không thể viết trong văn bản được, đó là không sinh đẻ trong mấy năm đầu làm việc, vì gia đình, con cái cũng là một thử thách cho phụ nữ. Tôi nhớ là lúc ấy, hai câu hỏi căn bản mà các bạn đồng học nữ với tôi thời ấy đó là, đơn giản lắm: Lập gia đình lúc nào? Có con khi nào, khi đi học hay khi đi làm?
Cho nên người phụ nữ mà gọi là một cổ hai tròng, một mặt phải dành hết sức lực, trí tuệ để bảo đảm công ăn việc làm, sự tiến bộ của mình trong nghề nghiệp, một mặt phải lo toan cho chồng, cho con vui khỏe, hạnh phúc, đó là hai gánh nặng và trách nhiệm rất lớn.”
Bất chấp những khó khăn, bà Mathilde cho biết những năm tháng công tác trong lĩnh vực tài chính, kinh tế, đảm nhận những trọng trách lớn, đã giúp bà có một cái nhìn thẳng vào nhiều vấn đề sự kiện, cũng như hiểu được ít nhiều mặt trái của các vấn đề sự kiện. Bà nói rằng đằng sau một con mắt văn chương xã hội mang ít hay nhiều tính chất thơ mộng, thì bà có một con mắt khác, một con mắt phân tích khoa học thực tế, cân nhắc, và suy nghĩ. Với những vốn sống và trải nghiệm đa dạng được tích lũy đã đóng góp một phần lớn vào công việc viết sách hiện giờ của bà.
Bà
Mathilde đứng bên cạnh giếng nước của tư thất của nhà thơ cổ điển Pháp Jean de
La Fontaine, tại Château-Thierry, vào cuối thu 2012
Nội
dung, kiến thức cho những cuốn sách thì có thể dần dần tích lũy, nhưng khi được
hỏi về thần tượng văn chương hay nguồn cảm hứng định hình phong cách viết, bà
đã nói:
“Trời sinh mỗi người có một văn phong khác nhau, không ai có thể viết giống ai cả, mà muốn bắt chước giống người ta cũng không được. Thế nên người Pháp họ mới có một câu nói là Văn Tức Là Người, tâm hồn mình ra sao thì cái câu văn của mình cũng như thế. Văn phong của mình chính là cái dấu ấn của người viết. Cho nên khi mà tôi bị người khác sửa văn của mình hay là bị biên tập lại thì tôi luôn luôn có cảm giác là cái văn ấy không còn là của mình nữa.”
Bà nói cảm hứng viết lách của bà phát sinh từ nhiều nguồn, từ thiên nhiên, phong cảnh, con người, hay vạn vật. Bà nói, rất nhiều điều đơn giản cũng có thể gây cho mình một cảm hứng bất chợt để thành một bài văn hay một bài thơ. Tuy nhiên, những điều này dường như cũng không mấy liên quan trực tiếp tới những cuốn sách nghiên cứu lịch sử mà bà đã cho xuất bản như cuốn Dấu Xưa tản mạn lịch sử nhà Nguyễn (khảo cứu lịch sử) năm 2010. Vậy cơ duyên dẫn tới việc xuất bản những cuốn sách về lịch sử của bà là do đâu? Bà cho biết:
“Trời sinh mỗi người có một văn phong khác nhau, không ai có thể viết giống ai cả, mà muốn bắt chước giống người ta cũng không được. Thế nên người Pháp họ mới có một câu nói là Văn Tức Là Người, tâm hồn mình ra sao thì cái câu văn của mình cũng như thế. Văn phong của mình chính là cái dấu ấn của người viết. Cho nên khi mà tôi bị người khác sửa văn của mình hay là bị biên tập lại thì tôi luôn luôn có cảm giác là cái văn ấy không còn là của mình nữa.”
Bà nói cảm hứng viết lách của bà phát sinh từ nhiều nguồn, từ thiên nhiên, phong cảnh, con người, hay vạn vật. Bà nói, rất nhiều điều đơn giản cũng có thể gây cho mình một cảm hứng bất chợt để thành một bài văn hay một bài thơ. Tuy nhiên, những điều này dường như cũng không mấy liên quan trực tiếp tới những cuốn sách nghiên cứu lịch sử mà bà đã cho xuất bản như cuốn Dấu Xưa tản mạn lịch sử nhà Nguyễn (khảo cứu lịch sử) năm 2010. Vậy cơ duyên dẫn tới việc xuất bản những cuốn sách về lịch sử của bà là do đâu? Bà cho biết:
Kiên nhẫn và phải dành nhiều thời giờ không phải là thử thách duy nhất. Bà đã kể thêm về những khó khăn trong quá trình nghiên cứu lịch sử:
“Khó khăn thứ nhất là khó khăn vật chất, tức là mình phải có điều kiện, phương tiện để đi nghiên cứu dài ngày một đề tài nào đó ở một nơi nào đó. Cái khó khăn thứ hai là vấn đề sinh ngữ. Trong văn khố lưu trữ của nhiều nước trên thế giới có lưu trữ một phần lịch sử Việt
Khó
khăn thứ tư, đó là mình cần có thày, là người đi trước, hướng dẫn, chỉ dẫn cho
mình vài điều. Mình cần có bạn để làm bạn đồng hành, giúp đỡ, trao đổi. Khó
khăn thứ năm là cái nản của chính mình. Nhiều khi làm việc 4,5,6,7 năm, cuốn
sách mới được in ra và đến tay độc giả. Cái khó khăn cuối cùng là, người đi học
sử, viết sử sách mình đầu tư về thời gian sống, về sức khỏe, về tình cảm, về hi
vọng, và cả tiền bạc nữa. Cho nên tôi có thể nói rằng, những ai mà đam mê về
lịch sử, nghiên cứu về lịch sử, dạy lịch sử, và học lịch sử, thì cho đời nhiều
hơn là mình nhận lại được.”
Gần đây, theo thông tin từ nhiều trang báo ViệtNam , tình trạng học sử của học sinh
từ tiểu học lên đến trung học phổ thông đang trở nên báo động. Tuy không có
nhiều thông tin về tình trạng dạy và học sử hiện tại trong nước, nhưng là một
người yêu thích lịch sử và dựa vào kinh nghiệm thực hiện các dự án giáo dục
trước đây khi bà còn làm việc cho chính quyền Cologne, bà cho biết:
“Về việc học sử, thì tôi có tiếp xúc với vài bạn trẻ học sử ở Việt Nam thì tôi thấy họ có cùng những khó khăn như bản thân tôi, tức là thiếu sách, thiếu tư liệu, thiếu điều kiện và phương tiện nghiên cứu, thiếu người hướng dẫn mở đường… dù họ cũng có đam mê như tôi về sử.
Tôi học ở Đức, nên tôi bị ảnh hưởng quan niệm giáo dục của Đức, tức là học phải đi đôi với hành. Hiểu lý thuyết là việc thứ nhất, rồi phải thấy và hiểu sự áp dụng của lý thuyết trên thực tế là việc thứ hai. Trong thời gian học về kinh tế, giáo sư thường tổ chức những chuyến đi thực tế đến các hãng, xưởng. Lúc tôi làm luận án tốt nghiệp thì tôi phải đi làm không công sáu tháng trong một hãng để có căn bản thực tế cho luận án. Dạy sử và học sử cũng thế, nên mở rộng giáo trình và thư mục tham khảo, cũng như nên có những chuyến đi thực tế. Dạy về Nguyễn Trung Trực thì phải về Rạch Giá, nói về Hai Bà Trưng thì phải về Mê Linh chẳng hạn…như thế học sinh mới có cảm nhận rằng lịch sử là đời thật đã qua, không phải là chuyện hoang đường khó nuốt, khó nhớ.”
Gần đây, theo thông tin từ nhiều trang báo Việt
“Về việc học sử, thì tôi có tiếp xúc với vài bạn trẻ học sử ở Việt Nam thì tôi thấy họ có cùng những khó khăn như bản thân tôi, tức là thiếu sách, thiếu tư liệu, thiếu điều kiện và phương tiện nghiên cứu, thiếu người hướng dẫn mở đường… dù họ cũng có đam mê như tôi về sử.
Tôi học ở Đức, nên tôi bị ảnh hưởng quan niệm giáo dục của Đức, tức là học phải đi đôi với hành. Hiểu lý thuyết là việc thứ nhất, rồi phải thấy và hiểu sự áp dụng của lý thuyết trên thực tế là việc thứ hai. Trong thời gian học về kinh tế, giáo sư thường tổ chức những chuyến đi thực tế đến các hãng, xưởng. Lúc tôi làm luận án tốt nghiệp thì tôi phải đi làm không công sáu tháng trong một hãng để có căn bản thực tế cho luận án. Dạy sử và học sử cũng thế, nên mở rộng giáo trình và thư mục tham khảo, cũng như nên có những chuyến đi thực tế. Dạy về Nguyễn Trung Trực thì phải về Rạch Giá, nói về Hai Bà Trưng thì phải về Mê Linh chẳng hạn…như thế học sinh mới có cảm nhận rằng lịch sử là đời thật đã qua, không phải là chuyện hoang đường khó nuốt, khó nhớ.”
Cuốn
hồi ký du lịch Từ Lũng Cũ đến Đất Mũi của bà mới được phát hành cuối tháng
1/2013
Ngoài
những bài viết về lịch sử, bà Mathilde còn dành nhiều thời gian trở về Việt Nam để
khám phá những nét đẹp và sự đổi thay của quê hương trong hiện tại. Cuối tháng
1 vừa rồi, bà vừa cho xuất bản cuốn hồi ký du lịch “Từ Lũng Cú đến Đất Mũi” sau
một thời gian dài ấp ủ.
Lịch sử không thể thay đổi mà chỉ có thể tìm tòi, nghiên cứu. Hiện tại thì có thể tiếp tục quan sát và ghi lại. Nhưng tương lai thì không thể đoán trước. Cũng chính vì vậy mà dường như chưa khi nào bà thôi trăn trở về việc liệu thế hệ người gốc Việt tương lai sinh sống và làm việc ở nước ngoài có thể giữ gìn và bảo tồn nhiều giá trị truyền thống, trong đó có việc học và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ hay không:
Lịch sử không thể thay đổi mà chỉ có thể tìm tòi, nghiên cứu. Hiện tại thì có thể tiếp tục quan sát và ghi lại. Nhưng tương lai thì không thể đoán trước. Cũng chính vì vậy mà dường như chưa khi nào bà thôi trăn trở về việc liệu thế hệ người gốc Việt tương lai sinh sống và làm việc ở nước ngoài có thể giữ gìn và bảo tồn nhiều giá trị truyền thống, trong đó có việc học và sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ hay không:
Tôi có một ông bạn học cũ, ông có một đứa cháu ngoại, mà đứa cháu ngoại mang trong người sáu gốc tích của sáu dòng máu. Khi cháu lớn lên thì cháu không thể chỉ là một người Việt được, mà cháu sẽ là một người của thế giới, một người đa dạng. Thành ra, một người như cháu mà có được một ít vốn liếng của Tiếng Việt, hiểu được một chút văn hóa của người Việt thì mình còn là một người Việt. Tôi chỉ mong mỏi là các thế hệ sau ở nước ngoài là đều biết nói, biết đọc Tiếng Việt thì không có gì hạnh phúc hơn cả.”
Hồng
Hoa
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.