Sống
và viết như những người lưu vong là một bi kịch. Đành rồi. Nhưng đó là một bi
kịch... đầy may mắn.
Thì
cũng vẫn là bi kịch. Vẫn nỗi đau đớn bị giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, giữa
ký ức và nhu cầu hội nhập. Vẫn niềm cô đơn gần như tuyệt đối của một kẻ, trong
đời sống hằng ngày, sử dụng một thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình,
và trong sáng tác, sử dụng một ngôn ngữ không phải là thứ ngôn ngữ thông dụng
trong xã hội. Vẫn cảm giác day dứt của những kẻ bị bứt rễ, bị trôi giạt, lúc
nào cũng đối diện với tính chất bất định ngay trong ý thức về bản sắc của chính
mình. Và vẫn những nỗi ngậm ngùi không thể tránh được của những kẻ ngơ ngác
đứng bên lề, không những bên lề nền văn học nơi mình cư ngụ mà còn bên lề cả
nền văn học ở cố quốc.
Tuy
nhiên không phải chỉ có bi kịch. Ngay trong bi kịch, từ một góc độ nào đó, cũng
loé lên một số yếu tố tích cực. Nếu không, đâu có ai tự ý chọn cuộc sống lưu
vong làm gì?
Lưu
vong đâu phải chỉ là phiêu lưu vào một không gian xa lạ, ở ngoài nước mình. Lưu
vong còn là phiêu lưu vào một văn hoá khác, một ngôn ngữ khác, một cách nhìn,
cách nghĩ, cách cảm không giống với những gì mình từng có. Nhưng đó là một cuộc
phiêu lưu vô cùng ì ạch, vừa đi vừa ngoái lại, thậm chí có khi lùi lại vì người
lưu vong nào cũng có một di sản vô cùng nặng nề. Hắn không thể vứt bỏ cái di
sản ấy. Mà vứt bỏ cũng không được: di sản ấy là một phần của hắn, là chính bản
thân hắn. Do đó, trừ một số ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, những cuộc phiêu lưu ấy
bao giờ cũng dở dang để người lưu vong, mặc dù về phương diện pháp lý, đã được
nhập tịch đàng hoàng, về phương diện văn hoá, vẫn chỉ là một kẻ “trú khách”,
nói theo chữ người Việt thường dùng để gọi người Hoa ở nước mình.
Những “trú
khách” ấy không có cách gì cắt bỏ được quá khứ dằng dặc sau lưng. Xã hội công
khai hoá cái gốc gác ấy bằng những danh xưng kiểu người Úc gốc Việt, người Mỹ
gốc Việt, người Pháp gốc Việt... Không bao giờ, ít nhất là cho đến hết thế hệ
di dân thứ nhất, thậm chí, thứ hai, thứ ba, người lưu vong có thể là một người
Úc, người Mỹ, người Pháp thuần tuý, không mang theo cái "gốc" nào cả.
Nhưng
hắn cũng không thể là người Việt thuần tuý được nữa. Về nước, hắn lại sẽ là
Việt kiều ở Úc, Việt kiều ở Mỹ, Việt kiều ở Pháp... Xã hội chung quanh biết
điều đó, và chính bản thân hắn, tự trong lòng, cũng thừa biết điều đó. Trong
quan hệ với quê hương cũ, bao giờ cũng có một khoảng cách âm thầm nhưng vô cùng
chắc chắn không thể vượt qua được. Với khoảng cách ấy, lúc nào hắn cũng bị nhìn
và tự nhìn như một kẻ lạ.
Bởi
vậy, lưu vong, tự bản chất, là mất hẳn cảm giác thuộc về một cái gì: tự thâm
tâm, người lưu vong biết vĩnh viễn hắn không thuộc về cái quốc gia hắn mới nhập
cư, tuy nhiên, có điều kiện quay về cố hương, hắn cũng thấm thía nhận thấy cố
hương ấy, dù thân thương đến mấy, đã không còn thuộc về hắn nữa. Có thể nói,
một khi đã rời bỏ quê hương, người ta sẽ không bao giờ có được một quê hương nào
cả. Quê hương mới: không; quê hương cũ: cũng không. Sống lưu vong là sống trong
trạng thái vừa ở ngoài vừa ở trong các quốc gia và các nền văn hoá khác nhau.
Hắn sống ở nơi giao thoa giữa các nền văn hoá, giữa quá khứ và hiện tại, giữa
niềm tự hào và tự ti, giữa hạnh phúc và thống khổ, giữa có và không. Trong
tiếng Anh, để gọi một người Úc gốc Việt chẳng hạn, người ta thường viết
“Vietnamese-Australian”. Nên để ý đến dấu gạch nối: đâu đó, đã có khá nhiều
người viết, chính cái gạch nối ấy mới là không gian của những người lưu vong,
nơi hắn sống và chết. Ở giữa. Trên những biên giới.
Sống
ở giữa không đơn giản là sống như một dấu cộng, cộng văn hoá nước người vào văn
hoá nước mình, cộng cái mới vào cái cũ. Không đơn giản và dễ dàng như thế. Trên
thực tế, cuộc đời lưu vong bao giờ cũng là một quá trình không ngừng trăn trở
và chao đảo giữa hai lực: đồng hoá và dị hoá. Dưới áp lực của đời sống kinh tế,
dù muốn hay không, người lưu vong nào cũng phải cố gắng hội nhập vào xã hội
mới. Nhưng quá trình hội nhập và đồng hoá ấy lại gặp không ít trở ngại, chủ yếu
xuất phát từ khuynh hướng dị hoá tự nhiên trong tâm lý của người lưu vong: với
di sản văn hoá mang theo từ quê cũ, hắn nhìn văn hoá mới như một cái gì khác,
một cái lạ. Chính khuynh hướng dị hoá ấy làm cho hắn vĩnh viễn không bao giờ có
thể nhập làm một với nền văn hoá mới. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là khuynh
hướng dị hoá không phải chỉ xuất hiện trong quan hệ với nền văn hoá mới mà còn
cả trong quan hệ với nền văn hoá gốc nữa. Để chống cự lại áp lực đồng hoá của
nền văn hoá mới, người lưu vong phải bám vào nền văn hoá gốc. Nhưng hắn lại
không thể tiếp tục tự đồng nhất hắn với nền văn hoá gốc ấy. Giữa hắn và nền văn
hoá gốc ấy dần dần xuất hiện những khoảng cách nhất định. Đến một lúc nào đó,
hắn nhìn văn hoá gốc của mình như một người ngoại cuộc. Lúc ấy, hắn thực sự đã
là một cái gì khác. Khác, so với nền văn hoá mới nơi hắn định cư. Khác, so cả
với nền văn hoá gốc hắn từng hít thở từ thuở vừa lọt lòng mẹ.
Điều
đáng chú ý là khi trở thành một kẻ lạ với nền văn hoá gốc, người ta cũng đồng
thời trở thành một kẻ xa lạ với chính mình. Lý do đơn giản là chính bản thân
con người cũng là một sản phẩm của văn hoá, là nơi những giá trị văn hoá được
thể hiện. Quá trình dị hoá với nền văn hoá gốc, do đó, cũng đồng nghĩa với quá
trình tự phân thân. Nói cách khác, hậu quả cuối cùng của quá trình dị hoá là
con người tự biến thành cái khác của một cái khác, một hiện hữu lạc lõng và cực
kỳ cô đơn, ở đó, hắn không những không nhập được vào một nền văn hoá nào mà còn
cảm thấy hoang mang về diện mạo của chính mình nữa.
Trong
nỗi hoang mang ấy, ý thức về bản sắc trở thành một ám ảnh: hiếm có người lưu
vong nào không bị khủng hoảng về vấn đề bản sắc, không loay hoay tự hỏi mình là
ai, không khát khao tự định nghĩa lại mình. Lịch sử lưu vong, ở một góc độ nào
đó, có thể nói là lịch sử của những cuộc tìm kiếm bản sắc. Lịch sử văn học lưu
vong, từ đó, cũng là lịch sử của những cuộc hành trình tìm kiếm bản sắc liên
tục.
Thì
cũng chẳng có gì là lạ. Lịch sử thế giới từ cuối thế kỷ 19 đến nay, nghĩ cho
cùng, cũng là lịch sử của những nỗ lực tìm kiếm bản sắc như thế. Ở các quốc gia
Tây phương, ám ảnh về vấn đề bản sắc, chủ yếu là bản sắc cá nhân, gắn liền với
chủ nghĩa hiện đại. Ở các quốc gia thuộc Thế giới Thứ Ba, ám ảnh về vấn đề bản
sắc, chủ yếu là bản sắc văn hoá dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa quốc gia, được
ra đời, trước hết, như là một phản ứng chống lại âm mưu đồng hoá của chủ nghĩa
thực dân, sau đó, đặc biệt là từ mấy thập niên gần đây, như một phản ứng chống
lại xu hướng toàn cầu hoá. Ám ảnh về vấn đề bản sắc trong các cộng đồng lưu
vong, do ít nhiều gắn liền với những kinh nghiệm hậu thực dân, cũng mang màu
sắc chính trị và một chút tự ti như nỗi ám ảnh được thấy trong các quốc gia
thuộc Thế giới Thứ Ba trước đây. Nhưng cái gọi là chính trị của các cộng đồng
lưu vong thường gắn liền với những kinh nghiệm thất bại và trốn chạy, do đó,
đầy những bất an; lại chỉ dựa vào một cộng đồng nhỏ bé và phân tán, do đó, hết
sức mong manh. Dựa trên một cơ sở mong manh và bất an như thế, bản sắc của cộng
đồng lưu vong không ngừng thay đổi tuỳ theo những thay đổi trong thời tiết
chính trị chung quanh. Có thể nói tính bị động và dễ dao động là đặc điểm
chủ yếu của các cộng đồng lưu vong: trong cả phương diện chính trị lẫn phương
diện văn hoá, lúc thì người ta đứng phía này, lúc thì người ta đứng phía khác;
lúc thì cực lực chống lại chính quyền ở quê cũ, lúc khác thì lại xum xoe nịnh
bợ từng người có chút chức tước trong cái bộ máy chính quyền ấy; lúc thì cố làm
ra vẻ... Tây, lúc khác lại xưng xưng làm ra vẻ đầy... Việt tính.
Làm
ra vẻ Tây thì phải... cố. Mà cũng chỉ cố đến một giới hạn nhất định nào đó mà
thôi. Bởi vậy, phần đông đều chọn con đường... Việt tính. Biểu hiện rõ rệt nhất
của sự lựa chọn này là những lời phát biểu đây đó, trên báo chí, của một số
người, cho họ lúc nào cũng thương nhớ quê hương, cũng đau đáu muốn viết về quê
hương, chỉ muốn nâng niu những giá trị truyền thống của quê hương. Những phát
biểu như thế rất dễ nhận được sự đồng tình của chính quyền ở quê cũ cũng như
của đám đông vốn lúc nào cũng khắc khoải nhớ nhà và nhớ quá khứ. Tuy nhiên,
theo tôi, chúng lại chẳng có ý nghĩa gì trong thế giới văn chương cả, bởi vì
thứ nhất, giá trị của văn chương không được hình thành từ những tình cảm ngoài
văn chương như thế; thứ hai, có khi ngược lại, chính những tình cảm ấy làm hại
cho văn chương không ít...
Tôi
hay tưởng tượng vớ vẩn: hình dung một “Việt kiều” lần đầu tiên trở về thăm quê
hương. Anh/chị ta hứa hẹn sẽ tặng từng người thân những món quà mà anh/chị ta
cho là quý báu nhất. Mọi người hồi hộp, trố mắt theo dõi từng động tác anh/chị
ta mở va li để lấy quà. Tay anh/chị ta run run
như không ngăn được những xúc động đang trào dâng trong lòng. Đó là những món
quà gì vậy? Này nhé, thử tưởng tượng: một bộ quần áo đã nhàu nát; một đôi dép
nhựa mòn và bẩn; một cuốn vở học trò vàng ố chép những bài thơ đầy mơ mộng của
tuổi học trò. Đó là tất cả những gì anh/chị ta đã mang theo lúc xuống tàu vượt
biên. Suốt mấy chục năm, ở quê người, anh/chị ta nâng niu những kỷ vật ấy. Với
anh/chị ta, đó là tất cả quá khứ, tất cả quê hương. Bây giờ, anh/chị ta muốn
tặng cái quá khứ và cái quê hương ấy lại cho những người thân yêu nhất.
Chúng
ta hãy tưởng tượng tiếp: những người thân của vị “Việt kiều” ấy sẽ phản ứng ra
sao? Riêng tôi thì tôi tưởng tượng: những người được tặng món quà ấy không
những thất vọng mà còn phẫn nộ nữa là khác. Áo quần rách, giày dép cũ, và những
tập vở chép thơ học trò ư? Ối giời, những món đó ở Việt Nam đâu có
thiếu gì! Chỉ cần đưa tay quơ một cái là người ta tóm được cả đống. Họ đâu cần
“Việt kiều” mang từ Mỹ, từ Pháp, từ Úc... về tặng.
Nếu
trong đời sống, những món quà vừa kể chỉ là điều riêng tôi tưởng tượng ra, chưa
chắc đã có thật, thì trong lãnh vực văn chương, những món quà như thế lại khá
nhiều, hơn nữa, rất nhiều: những món quà bằng chữ nghĩa ấy thật ra là những thứ
cũ mèm mà người ta đã mang theo từ lúc rời khỏi Việt Nam. Chỉ lạ một điều
là cho đến nay, hình như còn hiếm người cảm thấy thất vọng hay phẫn nộ trước
những món quà như thế.
Nhưng
cho dù hiếm ai thất vọng hay phẫn nộ thì với tư cách là người tặng quà, vì sự
liêm sỉ, chúng ta không có quyền tặng cho người khác những món quà như thế.
Không thể nhân danh tình tự dân tộc để tặng cho người khác những món quà mà họ
đã từng vất đi. Không thể nhân danh lòng yêu nước để nâng niu mãi những thứ làm
cản trở bước tiến của đất nước.
Có
thể nói, đối với cộng đồng lưu vong, cả nỗ lực làm ra vẻ Tây lẫn nỗ lực làm ra
vẻ Việt đều là những nỗ lực tuyệt vọng. Trên thực tế, hắn không bao giờ có thể
là Tây mà cũng chẳng bao giờ còn có thể là Việt hoàn toàn. Số phận của hắn là
số phận của những kẻ bị buộc phải sống trên những vùng biên, những vùng giao
thoa. Đó là sự bất hạnh của hắn nhưng lại cũng là điều may mắn lớn nhất của
hắn. Bất hạnh vì sống trên những biên giới cũng có nghĩa là sống ở ngoài lề.
Nhưng may mắn vì nhờ sống ngoài lề, hắn có khoảng cách với các trung tâm văn
hoá, nhờ đó, hắn có thể thoát được áp lực của truyền thống và của đám đông, có
thể ít nhiều giữ được tính chất độc lập trong cách cảm, cách nghĩ và cách viết.
Nói cách khác, hắn không chỉ sống với những nền văn hoá mà còn có cơ hội và có
khả năng nhìn ngắm các nền văn hoá ấy từ một khoảng cách nhất định. Cái nhìn
ngoại cuộc ấy giúp hắn phát hiện được những mặt mạnh và mặt yếu của từng nền
văn hoá. Do đó, có thể nói năng lực mạnh nhất của những người lưu vong chính là
năng lực phê phán. Mà quê hương, nếu cần gì ở người lưu vong về phương diện văn
hoá, cũng chỉ cần ở góc độ phê phán ấy, cần cái nhìn không hẳn ở ngoài như cái
nhìn của những người ngoại tộc xa lạ mà cũng không phải cái nhìn ở trong như vô
số các công dân khác. Chính những cái nhìn phê phán vừa ở ngoài vừa ở trong ấy
giúp quê hương tự ý thức về mình rõ hơn. Và trong rất nhiều trường hợp, một sự
tự ý thức như thế tự bản thân nó đã là một sức mạnh.
Quan
trọng không kém, qua kinh nghiệm sống xuyên văn hoá, người lưu vong dễ có cơ
hội đạt đến một cách nhìn tổng hợp. Phát triển cái nhìn tổng hợp này đến một
mức nào đó, người ta có thể có được sự sáng tạo hoặc ít nhất cũng có thể hình
thành được một thứ bản sắc lai ghép mang tính sáng tạo. Đây chính là lý do
khiến một số học giả quan niệm những trí thức và những văn nghệ sĩ thực sự bao
giờ cũng mang tâm thế lưu vong, ngay cả khi họ đang sống yên bình ngay trên quê
hương của chính họ: họ lưu vong ra khỏi những quy ước nghệ thuật đã thành sáo
mòn và những tư tưởng đã thành tín ngưỡng. Hơn nữa, họ còn cho tâm thế của
người lưu vong đích thị là tâm thế hậu hiện đại, ở đó, những cái ở các vùng
biên được xem là những giá trị.
Riêng
người Việt Nam ,
trong suốt mấy chục năm qua, dù một cách rất ít tự giác và có lẽ cũng rất ít nỗ
lực, hình như cũng dần dần hình thành một số bản sắc lai ghép khá thú vị. Tôi
có cảm tưởng ngoài phong cách cá nhân, nền văn học Việt Nam ở hải ngoại đang dần dần hình thành một số
phong cách địa phương: những người cầm bút Việt Nam ở Mỹ, ở Úc, ở Pháp, ở Đức...
dường như đang dần dần manh nha một số nét gì đó riêng cho họ. Cũng là Việt Nam
và cũng là lưu vong cả thôi, nhưng do ảnh hưởng của nền văn hoá nơi họ đang
định cư cũng như do mối quan hệ đặc biệt của họ với quê hương Việt Nam, diện
mạo của họ không giống hẳn nhau. Ví dụ, trong khi phần lớn các nhà văn tại Mỹ
và Canada ra đi từ miền Nam với những kinh nghiệm và kỷ niệm gắn liền với chế
độ Việt Nam Cộng Hoà, các nhà văn ở Đức phần lớn trẻ hơn và thường ra đi từ
miền Bắc với những kinh nghiệm và kỷ niệm gắn liền với chế độ xã hội chủ nghĩa;
các nhà văn ở Pháp phần lớn ra đi từ miền Nam nhưng do ảnh hưởng của các phong
trào chính trị thịnh hành thời chiến tranh Việt Nam, thường có khuynh hướng
thiên về miền Bắc; các nhà văn ở Úc phần lớn cũng ra đi từ miền Nam, nhưng chủ
yếu là miền Nam sau năm 1975, lúc đất nước đã thống nhất, do đó ý niệm về vùng
miền tương đối nhạt hơn so với các cộng đồng cầm bút Việt Nam khác. Đại khái
thế. Tôi tin là những dị biệt trong kinh nghiệm và kỷ niệm thời còn ở Việt Nam
ấy, cộng với những ảnh hưởng đến từ nền văn hoá chính mạch nơi họ định cư, sẽ
dần dần làm cho phong cách địa phương trong văn chương của họ ngày một rõ nét
hơn. Đến lúc ấy, chúng ta sẽ không có một mà là nhiều nền văn học Việt Nam lưu vong
với những nét đặc thù khá khác nhau. Những nền văn học lưu vong ấy sẽ cùng với
những nền văn học trong nước tạo thành một Khối Thịnh Vượng Chung của nền văn
học Việt Nam, một thứ “Commonwealth of Vietnamese Literature”, nơi, bất chấp
những sự dị biệt về quan điểm chính trị hay thẩm mỹ, người ta chỉ sử dụng một
thứ tiền tệ duy nhất: tiếng mẹ đẻ, và xuất phát từ một mục tiêu duy nhất: làm
cho văn học Việt Nam trở thành khởi sắc, giàu có, đa dạng và mới mẻ hẳn lên.
Dĩ
nhiên việc hình thành Khối Thịnh Vượng Chung của văn học Việt Nam là một quá
trình lâu dài và chắc chắn là sẽ đối diện với vô số những cản trở xuất phát từ
óc địa phương hẹp hòi. Mà óc địa phương hẹp hòi như thế ở Việt Nam không
thiếu. Nó như là một thứ di sản của cái gọi là văn hoá làng ngày xưa. Nó lại
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính-quyền-làng Việt Nam . Tuy nhiên,
tôi không tin những tàn dư ấy sẽ có sức sống hay ảnh hưởng lâu dài. Chắc chắn
văn học sẽ vượt qua được những thành kiến và những toan tính phi văn học ngay
cả từ những thế lực thống trị trong xã hội.
Sự
hình thành của Khối Thịnh Vượng Chung của văn học Việt Nam là một xu
hướng không thể tránh khỏi. Hơn nữa, quá trình hình thành Khối Thịnh Vượng
Chung của văn học Việt Nam cũng đồng thời là quá trình chuyển nghĩa của hai
khái niệm trung tâm và ngoài lề: từ một sự phân biệt mang tính địa lý, chính
trị và xã hội, chúng sẽ trở thành một sự phân biệt mang tính văn hoá và mỹ học,
ở đó không chừng cái gọi là trung tâm sẽ chỉ còn đồng nghĩa với di sản và với
truyền thống.
Theo
tôi, một quá trình như thế đang xuất hiện. Dần dần. Ngày một rõ nét.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.