Châu
Âu làm lễ kỷ niệm ngày đập tường
Đúng
một phần tư thế kỷ đã trôi qua từ ngày Bức tường Berlin sụp đổ, một khoảng thời gian đủ dài
– một phần ba cuộc đời, năm nhiệm kỳ tổng thống, tổng bí thư – để so sánh
Việt Nam và Đông Âu.
Tôi
sang Berlin hè năm 1990 từ Ba Lan bằng hộ chiếu Việt Nam với visa Đông Đức,
một trong số tấm thị thực cuối cùng Đại sứ quán của họ ở Warsaw cấp cho người
nước ngoài, vì đến tháng 10 năm đó, Đông Đức chấm dứt tồn tại.
Lúc
tôi đến xem, Bức tường Berlin
khi ấy vẫn còn dài, chạy vòng vèo qua các khu phố, bờ sông, cánh rừng của thành
phố đầy ắp dấu ấn của sự chia cắt.
Nhưng
cổng thành Brandenburg
đã mở để ai thích thì đi xe thênh thang sang phía Tây, xem chủ nghĩa tư bản là
cái gì mà sáng choang như thế.
Các
bạn bè và thân nhân của tôi ở Đông Berlin
vào năm 1990 thì đều băn khoăn với câu hỏi về hay ở, và ở thì làm ăn tại chỗ
hay đi tiếp sang Tây Đức.
Giữa
cơn sốt buôn bán, đổi tiền, mua hàng, tích trữ quà cáp, ai cũng nhớn nhác suy
tính xem ở lại sẽ có một tương lai tốt hơn hay về nước.
Bao
trùm lên nỗi băn khoăn đó thực ra là câu hỏi ‘Việt Nam sẽ ra sao những năm
tới?’
Nhưng
dù phải lo kinh tế và cuộc sống cá nhân, không phải người ta không thấy vụ kéo
đổ tường Berlin
báo hiệu một cơn bão chính trị.
Chủ
nghĩa xã hội đã phá sản ngay trên quê hương của nó.
Nhưng
Việt Nam đã không chọn con đường của các nước đầy những người bạn giàu lòng
nhân hậu, tư duy thoáng đãng, bao dung, không xỏ lá, trịch thượng, không bắt
nạt kẻ kém hơn mình.
Giờ
nhìn lại, theo cảm quan của riêng tôi, một người bám sát các biến đổi ở Đông
Âu từ đó đến nay, thì sự lựa chọn của các vị thế hệ cha anh của tôi về đường
hướng cho Việt Nam là hoàn toàn thông cảm được vào thời điểm đó nhưng là quyết
định chỉ đạt điểm trung bình kém.
Nhiều
tác giả đã phân tích về sự nghiệp Đổi Mới ở Việt Nam và nói về lựa chọn của
lãnh đạo nước này khi Đông Âu chuyển mình.
Nỗi
sợ đổ vỡ, sợ bị ‘bọn tư bản’ lấn chiếm, lật đổ...là điều hoàn toàn hiểu được
bởi các lãnh đạo quá nửa đời sống trong cuộc chiến mà kẻ thù chính là Phương
Tây.
Bức
tường Berlin
một thời chia cắt Đông và Tây Âu
Không
chỉ bác bỏ mô hình mà Ba Lan, Hungary, CH Czech...chọn lựa, báo chí ở Hà Nội
từng có lúc tự hào là không cần thay đổi thể chế mà vẫn phát triển được kinh
tế, vẫn hội nhập quốc tế thành công.
Ta
hãy so sánh tiêu chuẩn kinh tế, xã hội và mức độ hội nhập để xem lựa chọn
của Việt Nam và Đông Âu cũ hơn kém ra sao, chưa nói đến nhân quyền, dân chủ.
Đầu
tiên là về thu nhập bình quân đầu dân.
Theo
tiêu chuẩn Liên Hiệp Quốc, GNI năm 2012 thì không tính vùng Đông Đức nay
thuộc Cộng hòa Liên bang Đức giàu mạnh nhất châu Âu, dân các nước Ba Lan (12
nghìn USD), Hungary (12 nghìn USD), Lithuania (11 nghìn USD), Slovakia (8600
USD), Romania (7700 USD), Bulgaria (6000 USD), đều nhiều tiền hơn dân Việt Nam.
Thậm
chí dân Albania, quốc gia nghèo nàn lạc hậu nhất châu Âu từ thời cộng sản đến
nay, và chưa là thành viên EU vẫn có thu nhập 3800 USD, bỏ xa Việt Nam ở mức
1600 USD.
Cuộc
chiến khốc liệt sau khi Nam Tư tan rã từng làm nhiều người Việt Nam lo sợ.
Nhưng
nay các nước đó đều ổn định, phát triển và giàu có hơn Việt Nam.
Bosnia
nghèo cũng có GNI 4500 USD, còn Croatia không chỉ giàu hơn (13 nghìn USD) mà
còn là điểm du lịch nổi tiếng với bờ biển đẹp, các di tích cổ và cả bảo tàng về
cuộc chiến 1991, thu hút đông đảo du khách châu Âu.
Như
thế, không thể nói mô hình Việt Nam chọn 25 năm qua là điều gì kỳ diệu vì nó
mới chỉ giúp nước này thoát nghèo mà thôi.
Thứ
nhì là về công bằng và an sinh xã hội.
Sau
chừng 15 năm chuyển đổi cơ chế, từ 2004 đến 2013, một loạt quốc gia Đông Âu đã
gia nhập ngôi nhà chung EU.
Biểu
tượng Công đoàn Đoàn kết của Ba Lan ở Berlin
trong lòng châu Âu thống nhất
Công
dân họ ở lại hay sang Đức, Hà Lan, Anh, Pháp... đều được hưởng các quyền lợi
như các nước dân chủ tư bản lâu đời, từ an sinh xã hội đến quyền giáo dục, y
tế, bầu cử...
Nếu
không thỏa mãn với toà án nước mình, họ có thể kiện lên các toà nhân quyền châu
Âu để đòi công lý.
Việt
Nam cũng tiến triển trong hội nhập quốc tế và công dân đã có thể sang ASEAN
không cần thị thực nhưng không được hưởng quyền gì hết, đôi khi còn bị kỳ thị
như ở Thái Lan , Singapore gần đây.
Và
để tìm vận hội, người Việt nghèo lại tìm đến vùng Đông Âu cũ nay thuộc EU.
Ở
Việt Nam, ai có thu nhập cao hơn mức trung bình 1300 USD một năm đó thì cũng
nên thận trọng vì điều đó có nghĩa là còn một số rất đông sống dưới mức đó.
Mất
cân bằng thu nhập và thiếu cơ hội vươn lên trong một bộ phận dân cư đông
đảo đang là quả bom nổ chậm cả về an ninh lẫn kinh tế.
Thứ
ba là về chính cơ chế kinh tế và tốc độ hội nhập.
Cải
cách, ‘cải nhiều mà vẫn cách đó’, ở Việt Nam đã ngày càng lộ ra tính nửa vời
vì không tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng của thị trường.
Vốn
liếng của quốc gia thường bị dồn vào cho các tập đoàn nhà nước làm ăn yếu kém,
lãng phí.
Khối
tư nhân đóng thuế cao, tạo nhiều công ăn việc làm hơn thì bị kỳ thị, bóp nặn.
Tư
duy chính trị độc tôn ‘Đảng và Nhà nước trên hết’ vì không bị kiềm chế nên các
quán tính xấu của nó như dùng quyền lực can thiệp vào kinh tế không hề giảm đi
mà còn ngày càng mạnh lên.
Các
sự kiện như gia nhập WTO được báo chí nhà nước ở Việt Nam đề cao như một
thành tích về tiến bộ của cải cách.
Đa
số các nước Đông Âu cũng đã vào WTO và còn vào sớm hơn Việt Nam.
Ví
dụ như Romania
vào năm 1995 khi Việt Nam mới bắt đầu đàm phán để gia nhập chính thức năm
2007.
Nghèo
như Albania và vừa thoát
khỏi nội chiến như Croatia
cũng đã vào WTO từ năm 2000.
Các
nước gốc Đông Âu cộng sản như Romania
vẫn có thu nhập cao hơn Việt Nam
Điều
này cho thấy sức ì của cải tổ cơ chế chính trị nói chung đã khiến Việt Nam
chậm chân hơn nhiều so với các nước Đông Âu trong việc hội nhập kinh tế thế
giới, bất kể tuyên truyền nói gì.
Điều
cần nói nữa là di sản rất đặc thù, khủng khiếp hơn ta vẫn tưởng của mô hình
Liên Xô.
Một
khi đã dính vào mô hình này, quốc gia nào cũng sẽ phải trả giá, trả giá rất
cao, rất lâu dài.
Nhiều
lần quay lại các bang thuộc Đông Đức cũ cho tôi cảm nhận rất rõ rệt về điều
này.
Cùng
một dân tộc thuộc hàng văn minh nhất của nhân loại, người Đông Đức chỉ phải
chịu đựng mô hình Liên Xô trong 40 năm mà ngày nay các bang phía Đông vẫn chưa
thực sự hồi sinh.
Đến
thăm một số bạn Việt Nam ở Chemnitz, thành phố từng mang tên Karl Marx, tôi
thấy chỉ có mấy hộ gia đình ở cả một toà nhà nhiều tầng, phần còn lại bỏ
hoang.
Lý
do là người dân Đức cứ còn sức, còn tuổi trẻ là bỏ đi sang phía Tây, để lại
những khu phố gió lùa vắng lặng, công viên lá vàng đẹp rực rỡ nhưng thiếu bóng
người.
Về
đêm, Đông Berlin vẫn ít ánh đèn, tối hơn hẳn
Tây Berlin
sau 25 năm thống nhất.
Việt
Nam từng tự hào là tránh được nội chiến, xung đột sắc tộc như ở Nam Tư một
thời.
Nhưng
bạo lực chuyên chính do mô hình Liên Xô tích tụ, ép xuống, dồn nén vào dân đã
gây ra các xung lực đa chiều phá tung các tế bào xã hội, bẻ cong nhiều chuẩn
mực, làm biến dạng nhân cách.
Y
tế và giáo dục tiếp tục trên đà xuống dốc, giao thông thì kinh khủng hơn và hệ
thống công quyền tham nhũng, tư pháp hà khắc chính là ‘món quà từ mối tình Liên
Xô’ còn gây di hại.
Việt
Nam ngày hôm nay đã khác nhiều.
Hiển
nhiên, Việt Nam hôm nay không phải là những ngày tháng u ám của thập niên
trước Đổi Mới.
Xã
hội và con người đã tiến bộ lên rất nhiều, tự do cũng tăng và tư duy từ quan
chức đến người dân đều cởi mở hơn trước vượt bậc.
Điều
này một phần nhờ làn sóng giao lưu con người, thông tin tăng cao trên toàn thế
giới, nhờ sự hỗ trợ tài chính, khuyến khích kiên trì không ngừng nghỉ của các
cường nước có trách nhiệm toàn cầu.
Nhưng
cũng phải ghi nhận đóng góp của nhiều vị lãnh đạo, các nhà hoạch định kinh tế,
giới ngoại giao, doanh nghiệp, văn nghệ sỹ, giới vận động dân chủ, nhân
quyền và người dân nói chung cho sự biến đổi dần nhận thức, thúc đẩy các xu
hướng mới.
Việt
Nam cũng nhanh chóng nối lại quan hệ thân thiện với toàn bộ các nước Đông Âu
cũ và tỏ quyết tâm làm bạn, làm đối tác chiến lược với Đức, Anh, Pháp trong EU.
Xã
hội Việt Nam cần xây dựng chung một tương lai dựa trên những điều tiến bộ
chính mình đạt được.
Tuy
thế, trong nhận thức mới này vẫn cần một đánh giá công minh về thành quả của
Đông Âu và lòng dũng cảm để nói rằng lựa chọn của Việt Nam 25 năm qua còn
nhiều thiếu hụt.
Ngày
nay người Việt lại tiếp tục trở lại Đông Âu làm ăn
Bài
học cho Việt Nam vì thế là bài học của các nước nhỏ vùng Đông Âu đã thành công
trong cả cải cách chính trị và kinh tế, không chạy theo đại cường hạt nhân như
Trung Quốc và Nga vốn luôn có tính toán của họ.
Vào
những đêm sôi động đập tường Berlin
25 năm về trước, nhiều bạn tôi đã ‘chui nách’ các công dân Đức to cao để sang
xem phía Tây có gì lạ.
Ngày
nay, hàng triệu người Việt, từ quan chức đến người dân đã đi nước ngoài, đã
biết rõ những điều hay dở của thế giới ngày nay.
Để
bước hẳn sang miền văn minh, tiến bộ, cần dỡ bỏ nốt những bức tường lo sợ
trong tư duy và nghiệm lại bài học của các nước Đông Âu một thời là đồng minh
đồng chí.
Nguyễn
Giang
*****
Jul
29, 2014
Tuần
báo The Economist vừa đăng một bài nghiên cứu về người Đức sống trong vùng Đông
Đức trước đây, theo Xã Hội Chủ Nghĩa có thái độ chua cay, gian trá hơn người
Đức sống bên Tây Đức theo Chủ Nghĩa Tư Bản.
Nov
04, 2014
Ông
nói các nhà lãnh đạo Đông Đức đồng ý cải cách trước khi nước này hội nhập vào
Tây Đức. Động thái như thế được xem như không thể nào xảy ra tại Bắc Triều Tiên
hiện nay. image. Ông
Park nói sẽ là một tình
hình lý ...
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.