Trong
suốt khoảng 10 năm trở lại đây, mỗi lần Trung Cộng gia tăng xây dựng trên các
quần đảo chiếm được ở Biển Đông. Việt Nam lập đi lập lại một phương thức
ứng phó là lên án và đối thoại.
Việc
lên án gần như là độc diễn, Việt Nam
nói cho người dân Việt Nam
nghe.
Trong
những hội nghị, hội thảo liên quan đến biển Đông như môi trường, dầu khí, hàng
hải mà các quốc gia khác tổ chức. Người Trung Cộng luôn có mặt và đưa bằng mọi
cách họ khéo léo lái đến việc khẳng định chủ quyền của họ tại biển Đông, qua
những bằng chứng họ đưa. Thậm chí họ dịch công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng
thành nhiều thứ tiếng theo quốc gia có hội thảo, hội nghị để phân phát cho
khách tham dự.
Ở
cấp độ lớn hơn, trong các dịp quan hệ ngoại giao với các nước ở tầm quốc gia,
chính khách Trung Cộng luôn thò việc Biển Đông vào bàn nghị sự. Họ luôn
trình bày họ đang ở thế bị hại, họ yêu chuộng hòa bình quá đỗi cho nên bị các
nước khu vực xung quanh biển Đông lấn chiếm biển đảo của họ. Thâm hiểm hơn, họ
cho rằng việc lấn chiếm ấy của các nước , đặc biệt có Việt Nam , là nhằm
đánh bắt trộm tài nguyên, hút trộm dầu khí của họ.
Người
Trung Cộng đưa ra những hình ảnh, clip, bản nhận tội của dân Việt Nam bị bắt
giữ, những biên bản xử lý phạt tiền và những biên lai do ngư dân Việt Nam nộp
phạt, những lời thú tội của ngư dân Việt Nam cho các chính khách quốc tế xem.
Vì
lý do nào đó, như chủ quan coi thường, hoặc vì quan hệ chính trị trao đổi, nhà
nước Việt Nam
không để ý đến những việc làm này của Trung Cộng.
Thế
nhưng mưa dần thấm lâu, một hình ảnh Việt Nam khuất tất, cơ hội, trộm cắp vặt
đã hình thành trong đầu những chính khách quốc tế. Nhất là ở châu Âu. Trong
một thống kê của toà án Đức thì có 5000 vụ trộm cắp do người Việt gây ra trong
tổng số một trăm nghìn người Việt tại Đức. Chả quốc gia nào ở Châu Âu lạ lẫm
với việc người Việt trồng cần sa, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, làm lậu,
trộm cắp, thịt chó, thịt mèo, buôn người, làm giấy tờ giả nhận con, kết hôn giả…
Phần
đa số người Việt phạm tội này nằm trong nhóm Việt Kiều ra đi từ phía Bắc của vĩ
tuyến 17 sau năm 1975.
Với
những chứng cứ dàn dựng của Trung Cộng và những lời than thở của họ, thêm những
hiện thực về các con số toà án sở tại đưa ra. Việc một chính khách không có nợ
nần , tình cảm gì với Việt Nam .
Ông ta có nghĩ rằng chuyện Việt Nam
đánh cá trộm, hút dầu trộm của Trung Cộng là hoàn toàn có thể. Do đó hành động
kêu ca của nhà nước Việt Nam
về chủ quyền biển đảo thực ra là nhằm che đậy mục đích trộm cắp mà thôi.
Điều
đó dẫn đến khi giàn khoan 981 của Trung Cộng xâm nhập vào lãnh hải Việt Nam .
Một số tờ báo Châu Âu gọi đó là cuộc cãi vã do tranh nhau khai thác dầu khí.
Các
bạn có tin không, chẳng có quốc gia nào đứng ra nói rằng Trung Cộng xâm
lược biển đảo của Việt Nam
cả. Các bạn cứ thử tìm xem có phát ngôn chính thức của quốc gia nào khẳng định
điều ấy. May lắm là sự lên án Trung Cộng có hành vi gây căng thẳng, xây dựng
này nọ trong khu vực tranh chấp, số lên án đó không là bao nhiêu so với hàng
trăm quốc gia trên thế giới.
Nhà
nước Việt Nam
đưa ra giải pháp đối thoại với Trung Cộng để giữ chủ quyền. Lặp đi lặp lại cụm
từ ” giải pháp đối thoai ” từ năm này sang năm khác, trưng ra hình ảnh
cuộc gặp gỡ này nọ, hai bên thống nhất giữ tinh thần nọ kia để giải quyết. Thực
ra là nhà nước Việt Nam lừa
dân Việt Nam .
Trung Cộng đã nói rất rõ ràng , họ không bao giờ thỏa hiệp với lợi ích cốt lõi.
”
Trong một bài viết khác, PLA Daily dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Trung Cộng
Thường Vạn Toàn cho biết quân đội nước này cam kết trở thành một lực lượng vì
hòa bình, nhưng không bao giờ thỏa hiệp đối với các nguyên tắc cốt lõi.”
Ai
cũng biết cái gọi là ” lợi ích cốt lõi ” mà Trung Cộng gọi ở đây là yêu sách
chủ quyền của họ tại Biển Đông. Và họ không nhân nhượng nào trong vấn đề
này, họ nói không có mâu thuẫn gì với Việt Nam về chủ quyền ở đây để
mà đàm phán chuyện này chỉ có đàm phán về việc xử lý đánh bắt cá trộm, cứu
thương, an ninh biển…những vấn đề nhân đạo, an ninh mà bất cứ nước nào thông
thường có biển giáp nhau đều bàn.
Vậy
là chẳng có chuyện đối thoại, đàm phán giữ chủ quyền giữa Việt Nam
với Trung Cộng cả. Bấy lâu nay Việt Nam vẫn che giấu sự thật này, đem
những đàm phán tào lao về tuần tra chung, an ninh, cứu trợ ra để lừa dân là
đang có tiến triển tốt trong việc đàm phán với Trung Cộng về chủ quyền.
Đây là lý giải cho những thắc mắc của người dân Việt tại sao lãnh đạo hai nước
Việt Trung thống nhất xử lý mâu thuẫn biển Đông, mà Trung Cộng vẫn gia tăng xây
dựng căn cứ quân sự, gia tăng bắt bớ ngư dân Việt Nam .
Cái
gọi là ” tranh thủ sự ủng hộ quốc tế ” của Việt Nam
trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam đã thất bại bởi nhiều nguyên
nhân. Bởi sự gian manh, vặt vãnh từ người dân Việt Nam khi sinh sống ở nước
ngoài, đến sự tráo trở, gian lận của nhà nước Việt Nam trong các cam kết về tôn
giáo, nhân quyền, pháp luật. Bạn cứ đặt vị trí mình là một chính khách của Đức,
Ba Lan, Tiệp, Anh khi đọc hồ sơ về người Việt tại Châu Âu và những nỗi buồn khi
làm việc với nhà nước Việt Nam, bạn sẽ hiểu họ nghĩ gì về con người, chế độ
Việt Nam ngày nay. Nếu họ có hoài nghi việc Việt Nam gào hét là bị xâm phạm chủ
quyền để che đậy hành vi hút dầu trộm, đánh cá trộm có gì là ngạc nhiên.
Cái
gọi là tự cường, phát triển kinh tế để tăng sức mạnh quốc phòng cũng thất bại
hoàn toàn. Từ khi có cái ý này đến hôm nay, hàng loạt tập đoàn nhà nước nợ đầm
đìa, phá sản, giải thể. Tham nhũng, quan liêu, gây thiệt hại, lãng phí tràn
lan. Nợ nần ngày càng chồng chất.
Cái
gọi là đoàn kết nội bộ để giữ chủ quyền cũng thất bại nốt. Hãy nhìn những
cuộc thanh trừng nội bộ hay những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược của
người dân trong nước bị đàn áp, những người lên án Trung Cộng bị bắt tù những
năm qua thì thấy rõ sự đoàn kết nội bộ của thể chế này có hay không.
Hãy
nhìn lại toàn bộ giải pháp giữ chủ quyền mà nhà nước Việt Nam đưa ra từ trước,
đến nay rõ ràng đã thất bại hoàn toàn.
Người
Buôn Gió
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.