
Các nguồn của chính
phủ Mỹ ước tính tổng cộng lính cộng sản Việt Nam thiệt mạng từ 1961 đến
1975 là 1.027.085 người, một con số mà giới chức Lầu Năm góc cho rằng có thể bị
phóng đại lên 30%. Nhưng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Việt Nam ước tính
con số này từ năm 1954 đến 1975 là 1,1 triệu.
Ước tính số người chết
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là 254.257 người.
Số thường dân Việt
Nam thiệt mạng trong chiến tranh, theo nhiều nguồn, có thể lên tới 2 triệu người.
Ngoài Mỹ, một số nước
cũng điều quân tham chiến. Vào lúc cao điểm có 50.003 quân Hàn Quốc, 11.586 từ
Thái Lan, 7.672 từ Úc, 2.061 từ Philippines và 552 từ New Zealand.
Trung cộng cũng điều
sang miền Bắc lực lượng đáng kể, lúc cao điểm có hơn 300.000 người, để giúp
công binh, hậu cần và phòng không. Liên Xô và Bắc Triều Tiên cũng có quân nhân
sang miền Bắc.
Lực lượng các nước
khác cũng có người chết, chẳng hạn hơn 4.000 lính Hàn Quốc và khoảng 1.100 người
Trung cộng.
Không chỉ do chiến
tranh tàn phá mà các chính sách sai lầm thời hậu chiến cũng để lại hậu quả kinh
tế tàn khốc cho Việt Nam. Điều này chỉ bắt đầu được cải thiện từ thời kỳ Đổi mới
vào năm 1986.
Đối với Mỹ, nhiều
nguồn ước tính thiệt hại cho quốc gia này do Chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn
đó là 168 tỷ USD, tương đương khoảng 1.000 tỷ USD hiện nay.
Nhưng cũng trong
cùng thời kỳ, một số quốc gia đã chứng kiến cú nhảy vọt kinh tế đáng kinh ngạc.
'Kỳ tích sông Hán'
Từ một quốc gia bị
tàn phá bởi Chiến tranh Triều Tiên, nghèo đói và phụ thuộc vào viện trợ nước
ngoài, Hàn Quốc đã vươn mình trở thành một cường quốc kinh tế toàn cầu, đứng
hàng đầu trong các ngành công nghiệp như điện tử, ô tô và công nghệ thông tin.
Tuy chưa chứng minh
được mối quan hệ nhân quả giữa Chiến tranh Việt Nam và sự tăng trưởng thần kỳ của
kinh tế Hàn Quốc, các nhà nghiên cứu đồng tình rằng có tồn tại sự liên quan giữa
hai điều này.
Ước tính lợi nhuận
tài chính từ Chiến tranh Việt Nam chiếm 7-8% GDP của Hàn Quốc trong giai đoạn
1966-1969. GDP của Hàn Quốc đã tăng gấp bốn lần từ 2,7 tỷ USD năm 1963 lên
10,73 tỷ USD năm 1973, theo nghiên cứu đăng tải năm 2013 từ Viện Nghiên cứu
Chính sách Asan (Hàn Quốc).
Vào đầu những năm
1960, Hàn Quốc vẫn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu với cơ sở hạ tầng yếu
kém và nguồn vốn hạn chế.
Chính phủ dưới thời Tổng thống Park Chung-hee đã khởi xướng một loạt kế hoạch phát triển kinh tế năm năm, tập trung vào công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, để thực hiện những tham vọng này, Hàn Quốc cần nguồn vốn đầu tư, thị trường xuất khẩu và kinh nghiệm trong các ngành công nghiệp hiện đại.
Chính trong bối cảnh
này, Chiến tranh Việt Nam mang đến những cơ hội lớn cho Hàn Quốc.
Một trong những tác
động trực tiếp và đáng kể nhất của Chiến tranh Việt Nam đối với kinh tế Hàn Quốc
là sự tham gia của quân đội nước này vào cuộc chiến.
Từ năm 1964 đến năm
1973, Hàn Quốc đã điều hơn 50.000 binh sĩ sang Việt Nam, trở thành lực lượng nước
ngoài lớn thứ hai sau Mỹ.
Dòng vốn ngoại tệ từ
các hoạt động quân này đã giúp cải thiện cán cân thanh toán của Hàn Quốc và
cung cấp nguồn vốn cần thiết cho các nỗ lực công nghiệp hóa trong nước.
Charles M.
Hernández, tác giả cuốn Lính đánh thuê trong Chiến tranh Việt Nam:
Washington thuê lính Hàn Quốc, xuất bản năm 2020, chỉ ra doanh thu từ cuộc xung
đột chiếm 40% tổng thu nhập ngoại hối của Hàn Quốc, và từ năm 1965 đến năm
1972, nước này đã kiếm được 1 tỷ đô la Mỹ và nhận được 2,7 tỷ đô la Mỹ dưới dạng
các khoản vay nước ngoài cũng như các những lợi ích khác.
Tác giả này khẳng định
"hoàn toàn hợp lý khi kết luận rằng sự tham gia của lính Đại Hàn vào cuộc
chiến đã góp phần vào sự phát triển kinh tế nhanh chóng của quốc gia".
Sự hiện diện quân sự ấy không chỉ mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho Hàn Quốc thông qua các khoản thanh toán từ chính phủ Mỹ để trang trải chi phí cho quân đội Hàn Quốc, mà còn tạo ra cơ hội cho các công ty Hàn Quốc tham gia vào các hoạt động hỗ trợ hậu cần và xây dựng tại Việt Nam.
Các công ty xây dựng
Hàn Quốc, điển hình là Hyundai và Hanjin, đã giành được các hợp đồng béo bở để
xây dựng đường sá, cầu cống, căn cứ quân sự và các công trình hạ tầng khác ở miền
Nam Việt Nam.
Khi xây dựng nhà ở
quân sự ở Việt Nam, các kỹ sư của Hyundai đã bắt đầu làm việc với nhiều loại
thiết bị hạng nặng hơn, làm chủ các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế liên quan đến
việc sử dụng các loại máy này.
Với những lợi thế,
cơ hội và yêu cầu đó, Hyundai không chỉ đạt được sự học hỏi và nâng cấp công
nghệ vượt bậc ở Việt Nam, họ còn thu được lợi nhuận khổng lồ và tích lũy được vốn
tài chính đáng kể phần lớn số vốn này, một lần nữa, lại được tái đầu tư vào các
dự án ở Hàn Quốc, chẳng hạn như việc xây dựng đường băng ở Osan, theo nghiên cứu
năm 2014 của Giáo sư Jim Glassman từ Đại học British Columbia (Canada) và Giáo
sư Choi Young-jin từ Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc).
Đối với Hanjin - một trong những tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc, công ty mẹ của Korean Air - họ đã tìm thấy một thị trường vững chắc cho các dịch vụ của mình. Công ty đã ký kết các hợp đồng trị giá 116 triệu đô la với quân đội Mỹ từ năm 1966 đến năm 1971, chiếm khoảng 11,5% tổng thu nhập của Hàn Quốc từ cuộc chiến, theo nghiên cứu năm 2019 của Đại học Duke (Mỹ).
Sau cuộc chiến,
Hanjin đã bắt đầu hoạt động kinh doanh vận tải container, tận dụng lợi nhuận và
các mối quan hệ có được thông qua quân đội Mỹ.
Cựu Đại sứ Slovakia
tại Hàn Quốc Milan Lajčiak trong một nghiên cứu năm 2016 có tên Mô hình
Phát triển của Hàn Quốc chỉ ra kinh nghiệm của các công ty xây dựng Hàn Quốc
tại Việt Nam đã mở đường cho việc thâm nhập vào thị trường Trung Đông vào giữa
những năm 1970 và sau đó.
Chính phủ Hàn Quốc
đã đưa ra các biện pháp thúc đẩy việc xâm nhập Trung Đông vào năm 1975 để hỗ trợ
các công ty xây dựng Hàn Quốc. Những động thái đó đã trở thành động lực cho
tăng trưởng kinh tế của quốc gia Đông Á này, theo ông Lajčiak.
Các ngành công nghiệp
như dệt may, thực phẩm chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng đã chứng kiến sự gia
tăng nhu cầu, thúc đẩy sản xuất và tạo ra việc làm. Mặc dù quy mô không lớn bằng
các khoản thanh toán trực tiếp, nhưng sự kích thích này đã góp phần vào tăng
trưởng kinh tế chung.
Kim chi - món ăn
"quốc hồn, quốc túy" của Hàn Quốc, theo bài viết đăng tải trên Korean
Association of International Studies và năm 2006, lần đầu được xuất khẩu quy mô
lớn là đến những người lính Đại Hàn tham chiến tại Việt Nam vào những năm 1960,
1970.
Trong giai đoạn từ 1960 đến 1970, xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng gấp 26 lần. Dù viện trợ quân sự và kinh tế đóng vai trò then chốt, những cơ hội thị trường mới cũng quan trọng không kém, khi doanh thu từ xuất khẩu thương mại và dịch vụ tại Việt Nam đã đạt tới 745 triệu đô la Mỹ vào năm 1967, theo bài viết đăng tải năm 2017 trên trang web E-International Relations chuyên về quan hệ, chính trị quốc tế.
Mặc dù không phải là
yếu tố quyết định và trực tiếp, nhưng những cơ hội từ Chiến tranh Việt Nam đã
góp phần quan trọng vào giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế thần kỳ
của Hàn Quốc, giúp nước này có thêm nguồn lực và kinh nghiệm để hiện thực hóa
các mục tiêu công nghiệp hóa và vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế trong
suốt nhiều thập kỷ sau.
Nghiên cứu 2013 từ
Asan nhận định trải nghiệm ở Việt Nam đã để lại một di sản nữa cho Hàn Quốc. Sự
tham gia của Hàn Quốc vào cuộc chiến cùng với các quốc gia đồng minh khác – Việt
Nam Cộng hòa, Úc, New Zealand, Thái Lan và Philippines – đã đưa Hàn Quốc lần đầu
tiên kể từ khi thành lập trở thành một nhân tố khu vực trên trường quốc tế.
Hoạt động ngoại giao
của Hàn Quốc từ đó nhanh chóng mở rộng, vượt ra ngoài viện trợ quân sự và kinh
tế thông thường để bao gồm cả an ninh và thương mại quốc tế.
Dấu ấn Chiến tranh
Việt Nam trong 40 năm phát triển của Thái Lan
Từ một quốc gia chủ
yếu dựa vào nông nghiệp, Thái Lan đã vươn lên trở thành một trung tâm sản xuất,
du lịch và dịch vụ quan trọng của khu vực Đông Nam Á.
"Thái Lan đã tận hưởng thời kỳ hoàng kim với rất nhiều FDI từ Mỹ, Nhật… vào những năm 1950, 1960, 1970, trong khi Việt Nam vào thời điểm đó phải đối mặt với chiến tranh," Tiến sĩ Morragotwong Phumplab từ Đại học Thammasat ở Bangkok nói hồi tháng 3/2025.
Phát biểu trên không
phải là về quan hệ nhân quả của Chiến tranh Việt Nam và sự phát triển của Thái
Lan, nhưng các nghiên cứu cho thấy cuộc chiến này tác động khá lớn đến nhiều cột
mốc quan trọng của Thái Lan trong những năm này.
Năm 1954, Thái Lan
gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) - có mục đích ngăn chặn sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản - và trở thành một đồng minh tích cực đối với Mỹ.
Vào những năm 1960,
Thái Lan là một quốc gia có vị trí địa lý chiến lược, giáp ranh với các quốc
gia đang chìm trong xung đột. Chính vị trí này đã biến Thái Lan trở thành một hậu
phương quan trọng cho các hoạt động quân sự của Mỹ và các đồng minh trong Chiến
tranh Việt Nam.
Sự hiện diện quân sự
lớn của Mỹ tại các căn cứ không quân và hải quân trên khắp Thái Lan, từ Takhli,
Don Mueang đến Udorn, U-Tapao,.. . đã tạo ra một luồng vốn ngoại tệ đáng kể đổ
vào nền kinh tế nước này.
Một trong những tác động kinh tế trực tiếp nhất là sự gia tăng chi tiêu của quân đội Mỹ và các nhân viên liên quan. Hàng chục ngàn quân nhân Mỹ đóng quân tại Thái Lan đã tạo ra nhu cầu lớn về hàng hóa và dịch vụ địa phương, từ thực phẩm, đồ uống, chỗ ở, đến giải trí và các dịch vụ cá nhân khác.
Điều này đã thúc đẩy
sự phát triển của các ngành công nghiệp địa phương, tạo ra việc làm và mang lại
thu nhập cho người dân Thái Lan. Các thành phố và khu vực lân cận các căn cứ
quân sự đã chứng kiến sự bùng nổ về kinh tế, với sự mọc lên của nhà hàng, khách
sạn, quán bar và các cơ sở kinh doanh phục vụ nhu cầu của lực lượng quân đội.
Một bài viết năm
2017 trên The New York Times với nhan đề Why Thailand Takes
Pride in the Vietnam War (Tạm dịch: Tại sao Thái Lan tự hào về
Chiến tranh Việt Nam) chỉ ra rằng trong suốt cuộc chiến tranh, Hoa Kỳ đã đổ 1,1
tỷ đô la viện trợ kinh tế và quân sự vào Thái Lan, trong khi USAID rót thêm 590
triệu đô la nữa.
Cả hai khoản viện trợ
này đều góp phần thúc đẩy kinh tế Thái Lan và gián tiếp chi trả, thậm chí còn
dư, cho chi phí tham gia của Thái Lan vào cuộc chiến.
Khoảng 50.000 nhân
viên quân sự Mỹ, chủ yếu là thuộc Không quân, đóng quân trên khắp Thái Lan vào
cao điểm chiến tranh.
Các doanh nhân Thái
Lan đã xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà hàng và quán bar mới để phục vụ làn
sóng lính Mỹ tiêu xài thoải mái, kéo theo dòng vốn nước ngoài chảy vào đất nước.
Bên cạnh đó, việc
xây dựng và duy trì các căn cứ quân sự quy mô lớn cũng đòi hỏi một lượng lớn
lao động và vật liệu xây dựng. Các công ty xây dựng và cung cấp vật liệu của
Thái Lan đã có cơ hội tham gia vào các dự án này, tích lũy kinh nghiệm và thu về
lợi nhuận.
Sự phát triển của cơ
sở hạ tầng liên quan đến quân sự, như đường sá và sân bay, sau này cũng trở
thành những tài sản quan trọng phục vụ cho sự phát triển kinh tế chung của đất
nước.
Khi chiến tranh kết
thúc, Thái Lan đã giữ lại toàn bộ thiết bị quân sự và cơ sở hạ tầng của Mỹ, góp
phần vào quá trình hiện đại hóa đất nước.
Chiến tranh Việt Nam cũng gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Thái Lan. Mặc dù ban đầu chủ yếu phục vụ cho quân nhân Mỹ đến nghỉ ngơi và giải trí, nhưng sự hiện diện của người nước ngoài và sự phát triển của hạ tầng du lịch này đã đặt nền móng cho sự bùng nổ của ngành du lịch về sau.
Nghiên cứu được xuất
bản năm 2001 của Giáo sư Porphant Ouyyanont từ Đại học Mở Sukhothai Thammathirat
chỉ ra sự can thiệp của quân đội Mỹ ở Việt Nam tác động lớn đến ngành dịch vụ
và xây dựng Bangkok trong những năm 1960.
Hoạt động xây dựng
tăng mạnh với các khu dân cư, khách sạn và tòa nhà thương mại mới. Các ngành
tài chính, thương mại và du lịch cũng tăng trưởng nhanh chóng, kéo theo sự phát
triển của xây dựng.
Cũng tại thủ đô Thái
Lan, theo Giáo sư Ouyyanont, sự hiện diện của quân đội Mỹ đã gián tiếp tạo ra một
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công
nghiệp.
Mối quan hệ đồng
minh chặt chẽ với Mỹ trong thời kỳ này mang lại cho Thái Lan những lợi ích kinh
tế khác.
Ngành công nghiệp
tình dục nổi tiếng của đất nước, bùng nổ mạnh mẽ vào những năm 1960, đến từ sự
hiện diện của binh sĩ Mỹ và cuộc khủng hoảng nông nghiệp khiến nhiều phụ nữ di
cư từ nông thôn lên thành thị, theo nghiên cứu năm 2017 của Trung tâm Hiệu suất
Kinh tế (Anh quốc).
Tuy nhiên, cũng cần
phải nhìn nhận rằng sự phát triển kinh tế của Thái Lan không chỉ đơn thuần là kết
quả của Chiến tranh Việt Nam.
Các chính sách kinh
tế khôn ngoan của chính phủ Thái Lan, sự ổn định chính trị tương đối so với các
nước láng giềng và khả năng thích ứng với các thay đổi của kinh tế toàn cầu được
các chuyên gia đánh giá là những yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng dài hạn của
đất nước.
Chiến tranh Việt
Nam, trong bối cảnh đó, có thể được xem như một chất xúc tác, tạo ra những cơ hội
ban đầu và cung cấp nguồn lực cần thiết để khởi động quá trình phát triển kinh
tế.
Những khoản thu từ việc hỗ trợ hậu cần cho quân đội Mỹ đã cung cấp nguồn vốn ban đầu quan trọng cho việc đầu tư vào hạ tầng và các ngành công nghiệp mới. Sự phát triển của ngành du lịch, ban đầu được thúc đẩy bởi sự hiện diện của quân đội Mỹ, đã trở thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế Thái Lan.
Chiến tranh Việt Nam
mang lại những tác động kinh tế lớn cho Thái Lan nhờ vai trò hậu phương cho Mỹ.
Chi tiêu quân sự, xây dựng và du lịch sơ khai tạo ra nguồn thu ngoại tệ và cơ hội
kinh tế.
Dù không phải yếu tố
duy nhất, những tác động này đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi Thái
Lan từ kinh tế nông nghiệp sang đa dạng và năng động, trở thành một trong những
nước phát triển nhất Đông Nam Á.

No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.