
Điều Charlie Hopkins
nhớ nhất khi nghĩ tới ba năm sống trong một trong những nhà tù nổi tiếng nhất
nước Mỹ là sự "tĩnh lặng chết chóc".
Năm 1955, sau khi
gây rối ở các trại giam khác, ông Hopkins bị đưa tới Alcatraz – nhà tù nổi tiếng
nằm trên một hòn đảo biệt lập ngoài khơi thành phố San Francisco, bang
California – để tiếp tục chấp hành bản án 17 năm vì tội bắt cóc và cướp của.
Mỗi đêm nằm ngủ
trong xà lim trên hòn đảo hẻo lánh, âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng
còi tàu vọng lại từ xa.
"Âm thanh ấy thật
cô đơn," ông Hopkins nói. "Nó làm tôi nhớ đến bài hát 'I'm So
Lonesome I Could Cry' (Tôi cô đơn tới mức phát khóc) của Hank Williams.
Hiện đã 93 tuổi và
đang sống ở thành phố Florida, ông Hopkins nói rằng Cơ quan Lưu trữ Quốc gia tại
San Francisco đã nói với ông rằng ông có thể là cựu tù nhân Alcatraz cuối cùng
còn sống.
Trong buổi phỏng vấn vào tuần trước, ông Hopkins đã mô tả lại cuộc sống trong Alcatraz - nơi từng là bối cảnh của bộ phim The Rock (Pháo đài kiên cố) năm 1996. Ở đó, ông đã kết bạn với các dân giang hồ và từng tham gia lên kế hoạch cho một cuộc vượt ngục bất thành.
Dù Alcatraz đóng cửa
đã vài thập kỷ, Tổng thống Mỹ Donald Trump gần đây đã tuyên bố ông muốn mở lại
cơ sở này để làm nhà tù liên bang.
Ông Hopkins nhớ lại,
khi bị chuyển tới nhà tù an ninh nghiêm ngặt Alcatraz từ một trại giam ở
Atlanta vào năm 1955, Alcatraz sạch sẽ nhưng rất trống trải.
Hầu như không có thứ
gì để giải trí – thời ấy chưa có đài phát thanh, và sách thì rất ít, ông cho
hay.
"Chả có gì để làm cả," ông nói. "Bạn có thể đi tới đi lui trong xà lim, hoặc chống đẩy."
Ông Hopkins giữ cho
bản thân bận rộn bằng công việc lau dọn nhà tù Alcatraz, quét và đánh bóng sàn
cho tới khi nó "sáng bóng", ông kể.
Ông bị kết án vào
năm 1952 ở thành phố Jacksonville, bang Florida, vì dính líu vào một loạt vụ cướp
và bắt cóc.
Là một hòn đảo rộng khoảng 89.000 m2, nằm cách bờ biển San Francisco khoảng 2km, bốn bề Alcatraz bao quanh bởi làn nước lạnh giá và dòng chảy xiết. Cơ sở này ban đầu là một pháo đài hải quân phòng thủ, tới đầu thế kỷ 20 thì được cải tạo thành nhà tù quân sự.
Đến thập niên 1930,
Bộ Tư pháp Mỹ tiếp quản và biến nơi này thành nhà tù liên bang để đối phó với
tình trạng tội phạm có tổ chức tràn lan.
Dù Alcatraz là nhà
tù an ninh cao, ông Hopkins kể rằng ông vẫn không ít lần gây ra rắc rối, và bị
biệt giam nhiều ngày tại khu "D Block". Những tù nhân vi phạm kỷ luật
sẽ bị giam ở đây và hầu như không được ra khỏi buồng.
Lần biệt giam dài nhất
– kéo dài sáu tháng – là hậu quả của một âm mưu vượt ngục bất thành, theo lời
ông kể.
Ông Hopkins đã tìm
cách giúp một nhóm tù nhân, trong đó có kẻ cướp ngân hàng khét tiếng Forrest
Tucker, vượt ngục bằng cách trộm những lưỡi cưa nhỏ từ xưởng điện của trại để cắt
song sắt ở nhà bếp dưới tầng hầm.
Kế hoạch đổ bể khi
lính canh phát hiện lưỡi cưa trong buồng giam của các tù nhân khác. "Vài
ngày sau khi họ bị biệt giam thì tới lượt tôi," Hopkins kể.
Điều đó không làm
ngăn cản được một tù nhân.
Vào năm 1956, ông Tucker kể với tờ New Yorker rằng khi được đưa đến bệnh viện để phẫu thuật thận, ông đã dùng bút chì đâm vào mắt cá chân mình để lính canh nhà tù phải tháo còng chân. Sau đó, khi được đưa đi chụp X-quang, ông Tucker đã khống chế các nhân viên y tế và bỏ trốn.
Vài giờ sau, ông
Tucker bị tóm tại một cánh đồng ngô, trên người vẫn mặc áo choàng bệnh nhân.
Khi ngày càng nhiều
tù nhân tìm cách đào tẩu khỏi Alcatraz, giới chức đã cho tăng cường an ninh,
ông Hopkins kể.
"Khi tôi rời khỏi
đó vào năm 1958, an ninh chặt đến mức ngộp thở," ông nói.
Tổng cộng đã có 14 vụ
vượt ngục riêng biệt trong những năm qua, liên quan tới 36 tù nhân, theo Cục
Công viên Quốc gia Hoa Kỳ - một cơ quan thuộc của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ.
Một trong những vụ nổi
tiếng nhất là vụ vượt ngục của Frank Morris và hai anh em Clarence và John
Anglin vào tháng 6/1962. Họ đã đặt những chiếc đầu giả, làm bằng giấy bồi, trên
giường để đánh lừa lính canh và trốn thoát qua các ống thông gió.
Lực lượng chức năng vẫn chưa tìm thấy họ, nhưng Cục Điều tra Liên bang (FBI) kết luận rằng những tù nhân này đã chết đuối dưới vùng nước lạnh lẽo bao quanh hòn đảo.
Một năm sau,
Alcatraz đóng cửa khi chính phủ Mỹ xác định rằng việc xây dựng các nhà tù mới sẽ
hiệu quả hơn về mặt chi phí so với việc duy trì hoạt động của cơ sở trên hòn đảo
xa xôi này.
Hiện tại, Alcatraz
là một bảo tàng công thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm, thu về khoảng 60
triệu USD doanh thu hàng năm cho các đối tác của công viên National Recreation
Area - một khu vực rộng lớn bao gồm nhiều công viên và di tích lịch sử xung
quanh Vịnh San Francisco, trong đó có đảo Alcatraz.
Giờ đây, cơ sở này
đã xuống cấp, tường bong tróc, đường ống hoen gỉ và nhà vệ sinh mục nát trong mỗi
phòng giam chật hẹp.
Việc xây dựng những
khu chính của Alcatraz bắt đầu vào năm 1907, và hơn một thế kỷ tiếp xúc với
thiên nhiên đã khiến nơi này gần như không thể ở được.
Tuy nhiên, vào hôm 4/5, ông Trump tuyên bố muốn chính phủ của mình mở cửa trở lại và mở rộng nhà tù trên đảo cho "những tội phạm tàn nhẫn và bạo lực nhất" của đất nước.
Ông Trump từng nói
Alcatraz "tượng trưng cho thứ gì đó rất mạnh mẽ, rất quyền lực" thuộc
về pháp luật và trật tự.
Tuy nhiên, các
chuyên gia và nhà sử học cho rằng đề xuất tái vận hành Alcatraz của ông Trump
là điều khó xảy ra, vì chi phí sửa chữa và nâng cấp cho phù hợp với các cơ sở
liên bang khác sẽ lên tới hàng tỷ đô la.
Ông Hopkins đồng
tình, nói rằng "việc đó sẽ vô cùng tốn kém".
"Hồi ấy, hệ thống
nước thải xả thẳng ra biển," ông nói thêm. "Họ sẽ phải tìm ra cách xử
lý khác."
Ông Hopkins rời
Alcatraz năm năm trước khi nhà tù này đóng cửa vĩnh viễn. Ông được chuyển đến một
nhà tù ở thành phố Springfield, bang Missouri. Ở đó, ông được kê thuốc tâm thần
nhằm cải thiện hành vi và chữa lành các vấn đề tâm lý của mình, ông chia sẻ.
Ông Hopkins, là một
người ủng hộ nhiệt thành của ông Trump, cho rằng đề xuất của tổng thống Mỹ
không thực sự nghiêm túc.
"Ông ấy không
thực sự muốn mở cửa lại nơi đó," ông Hopkins nói, đồng thời nhận định rằng
ông Trump đang cố gắng "truyền đạt một thông điệp đến công chúng" về
việc trừng phạt tội phạm và những người nhập cư trái phép vào Mỹ.
Ông Hopkins được trả
tự do vào năm 1963, sau đó làm việc tại một trạm dừng xe tải trước khi làm các
công việc khác. Sau đó, ông quay về quê nhà ở bang Florida, nơi mà ông đang có
con gái và cháu trai.
Sau nhiều thập kỷ
suy ngẫm về tội ác và cuộc sống của mình ở Alcatraz, ông Hopkins đã viết một cuốn
hồi ký dài 1.000 trang, trong đó gần một nửa cuốn sách kể chi tiết về hành vi rắc
rối của mình, ông cho biết.
Bí ẩn số phận của 3
tù nhân trong vụ vượt ngục thành công duy nhất trốn khỏi Alcatraz
Alcatraz vốn được mệnh
danh là nhà tù không lối thoát với mức độ an ninh bảo mật nghiêm ngặt khét tiếng
bậc nhất thế giới. Trong suốt lịch sử hoạt động của Alcatraz, 36 tù nhân từng cố
gắng vượt ngục nhưng tất cả đều không thành công.
Trong số đó, 23 tên
bị bắt, 6 kẻ bị bắn chết, 2 người chết đuối, 5 người khác mất tích. Tuy nhiên,
hai anh em John và Clarence Anglin cùng với Frank Morris là 3 người duy nhất trốn
khỏi nhà tù này và số phận đến nay vẫn là ẩn số.
Nhà tù không lối
thoát
Nằm biệt lập trên một
hòn đảo trong vịnh San Francisco, bang California, Mỹ, bao quanh là vùng nước
biển lạnh, nhiệt độ không bao giờ vượt quá 160C vào mùa hè cùng những dòng hải
lưu chảy xiết, Alcatraz bắt đầu khởi công xây dựng năm 1910 và hoàn thành năm
1012 trên nền một nhà tù cũ. Đến năm 1934, nó được đặt dưới quyền kiểm soát của
Văn phòng Trại giam Liên bang, là nơi giam giữ những tù nhân nguy hiểm nhất nước
Mỹ, đồng thời được coi là nơi “không thể vượt ngục” bởi cách thiết kế khép kín
và hệ thống canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt.
Ấy vậy mà đêm
11/6/1962, 3 tù nhân cộm cán gồm Frank Lee Morris, John Anglin và Clarence
Anglin (là hai anh em ruột) đã trốn thoát. Đến tận bây giờ, Cục Điều tra Liên
bang Mỹ (FBI) vẫn chưa tìm thấy họ và lệnh truy nã họ vẫn còn hiệu lực.
Frank Lee Morris
sinh ngày 21/1/1926 tại Washington D.C. Năm 13 tuổi, Morris bị bắt vì tàng trữ
chất ma túy và cướp có vũ trang. 18 tuổi, vài ngày sau khi ra khỏi trường giáo
dưỡng, Morris lại tham gia một vụ cướp ngân hàng tại TP.Miami Beach, bang
Florida. Bị kết án 15 năm và bị giam ở nhà tù tiểu bang Lousiana nhưng ở tù được
10 năm, Morris trốn thoát.
Cũng như Frank Lee
Morris, anh em John Anglin (sinh ngày 2/5/1930) và Clarence Anglin (sinh ngày
11/5/1931) đều có quá khứ bất hảo. Lúc mới 14 tuổi, John rủ Clarence tham gia
cướp ngân hàng nhưng không bị truy tố vì ngoài việc chẳng lấy được đồng nào do
ngân hàng đã đến giờ đóng cửa, tất cả tiền đã chuyển xuống két sắt dưới hầm thì
khẩu súng mà họ dùng trong vụ cướp là súng đồ chơi trẻ con.
Năm 28 tuổi, một lần
nữa John lại rù Clarence cướp ngân hàng Columbia, bang Alabama. Bị bắt, John
lĩnh án 15 năm tù còn Clarence lĩnh án 20 năm vì trên tay Clarence có khẩu tiều
liên Thompson! Sau một thời gian thụ hình tại nhà tù tiểu bang Lavenworth,
Florida, cả hai được chuyển đến nhà tù liên bang Alcatraz với số tù lần lượt là
AZ 1476 và AZ 1485.
Trong vụ vượt ngục
Alcatraz, cũng cần phải nhắc đến một nhân vật nữa, đó là Allen Clayton West.
Sinh ngày 25/3/1929, West đi tù vì tội trộm ô tô, xảy ra vào năm 1955. Tại nhà
tù tiểu bang Florida, West âm mưu đào thoát nhưng bị phát giác rồi bị chuyển
sang Alcatraz với số tù AZ 1335. Khi Morris và anh em Anglin tổ chức trốn, West
tham gia nhưng đến phút cuối cùng, anh ta ở lại. Mãn án, West lại bị bắt và đi
tù thêm 20 lần nữa cũng vì hành vi trộm cắp.
“Ý tưởng lớn gặp
nhau”
Dù chuyển đến
Alcatraz vào các thời điểm khác nhau, nhưng số phận ngẫu nhiên đã khiến Morris,
anh em Anglin và West lại ở trong những phòng giam liền kề. Ý định vượt ngục xuất
hiện vào đầu tháng 12/1961, khi Morris tình cờ nhặt được vài lưỡi cưa sắt đã
gãy trong một lần ra sân tắm nắng. Lúc vụ vượt ngục xảy ra, qua điều tra FBI biết
rằng những lưỡi cưa ấy do các thợ sắt sữa chữa hàng rào an ninh ở khu vực giam
giữ những tù nhân đặc biệt nguy hiểm, đã vô tình vứt bỏ không đúng nơi quy định.
Sau gần 3 tháng quan
sát địa hình địa vật trong những lần ra sân tắm nắng, tập thể dục, giữa tháng
2/1962, lúc đến giờ ăn, Morris tìm cách ngồi chung bàn với anh em Anglin vì anh
ta hiểu rằng vụ vượt ngục không thể thành công nếu không có đồng phạm bởi lẽ
con đường duy nhất để thoát khỏi Alcatraz là đào một đường hầm ngay tại đầu giường
ngủ, đi vào lỗ thông gió lên sân thượng rồi từ đó vượt qua hàng rào thép gai,
xuống một vỉa đá lởm chởm, nơi đặt bồn nước ngọt để cung cấp cho sinh hoạt của
nhà tù. Sát cạnh bồn nước là biển, đồng nghĩa với tự do. Nếu anh em Anglin
không tham gia, những tiếng động gây ra từ việc đào hầm sẽ bị họ tố giác.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm
mã, lúc nghe Morris nói về kế hoạch đào thoát, anh em Anglin hưởng ứng ngay.
Không những thế, họ còn đề nghị rủ thêm West vì buồng giam của West nằm cạnh buồng
giam Clarence. Và cũng như anh em Anglin, West đồng ý. Một may mắn nữa đến với
nhóm vượt ngục là trong một lần được cử đi dọn dẹp khu vườn hoa của nhà tù,
John Anglin tìm thấy một thanh thép, hình dáng tựa như mũi khoan trong động cơ
của một máy hút bụi đã bị hỏng.
Suốt 6 tháng sau đó,
mỗi khi đêm xuống, lúc các buồng giam đã đóng cửa và các quản giáo đã trở về
khu vực trực gác của mình, Morris lại kéo chiếc giường dịch ra ngoài, mở tấm vỉ
thép che lỗ thông gió ở ngay đầu giường rồi dùng mũi khoan và lưỡi cưa gãy, đục,
khoét vào lớp gạch cho rộng nó ra để có thể chui lọt. Ở buồng bên cạnh, John
Anglin chơi đàn Acordion nhằm che dấu tiếng động. Nếu quản giáo đi kiểm tra đột
xuất, John báo hiệu bằng cách ngừng chơi còn Morris lắp tấm vỉ sắt vào lỗ thông
gió rồi lên giường nằm như đang say ngủ.
Và bởi vì hệ thống
thông gió ở Alcatraz gồm nhiều ống chính, đường kính 1,6m, chia thành từng ống
phụ đường kính 0,8m dẫn đến các buồng giam nên chỉ cần đục thông bức tường nằm
giữa đường ống phụ và tấm lưới sắt là tù nhân có thể luồn theo ống phụ, chui
vào đường ống chính. Tất cả gạch, vữa bể vỡ trong quá trình đục khoét được nhóm
vượt ngục dấu vào khoảng trống giữa bức tường và đường ống. Đến gần sáng, khi
việc điểm danh sắp bắt đầu, họ ngụy trang chỗ đục bằng những mảnh bìa các tông
rồi lắp tấm vỉ sắt lại, kéo giường ngủ vào vị trí cũ.
Giải quyết được con
đường đào thoát, Morris và anh em Anglin nghĩ đến chuyện đánh lừa quản giáo nếu
họ tiến hành kiểm tra đột xuất vào ban đêm. Bằng những mớ tóc lấy được từ phòng
hớt tóc cho tù nhân, bìa các tông nghiền nát, hồ dán từ bánh mì ngâm nước, giấy
vệ sinh, kem đánh răng và xà phòng, họ tạo ra 4 cái đầu người với kích thước y
như thật. Theo kế hoạch, vào đêm vượt ngục, mỗi người sẽ đặt cái đầu lên giường,
dưới là quần áo cùng những vật dụng linh tinh khác rồi kéo mền đắp ngang mặt.
Quản giáo nếu có đi kiểm tra, dưới ánh đèn điện hắt từ hành lang, họ sẽ không
thể biết người tù đang nằm ngủ trên giường chỉ là hình nộm.
Trở ngại cuối cùng của
nhóm vượt ngục là quãng đường biển từ Alcatraz vào đến bờ gần nhất là 16km.
Trong 3 tháng cuối, họ tìm được 50 chiếc áo mưa bằng cách xin, mua hoặc đánh cắp
của những tù nhân khác. Những chiếc áo mưa ấy được Morris và anh em Anglin dán
lại thành một chiếc bè ngang 1,8m, dài 4,3m. Đường ống dẫn hơi nóng để sưởi vào
mùa đông nằm gần bên ống thông gió và những tuýp keo đánh cắp từ xưởng làm găng
tay trong nhà tù đã giúp họ dán chiếc bè này...
Vượt ngục trong đêm
Cuối cùng, trong khoảng thời gian từ đêm 11/6 đến sáng 12/6/1962, chúng bắt đầu triển khai kế hoạch tẩu thoát. Chúng dùng gối, quần áo và một chiếc đầu giả để xếp làm hình người đang ngủ quay mặt vào tường để qua mặt lính canh. Mất khoảng 15 phút, cả nhóm vượt ngục vào được ống thông gió chính. Trong lòng ống có một cầu thang dẫn lên sân thượng, nơi đặt cửa hút gió. Tuy nhiên, khi chuẩn bị leo lên cầu thang thì Allen Clayton West bỗng nhiên đổi ý và không muốn trốn nữa. Sau này West kể: “Nhìn mặt Morris, tôi biết anh ta có ý giết tôi để bịt đầu mối. Vì thế, tôi phải đem sinh mạng của cha mẹ tôi ra thề rằng tôi sẽ im lặng khi quay lại buồng giam”.
Mất thêm nửa tiếng nữa,
Morris và anh em Anglin mới từ sân thượng xuống được mái nhà của các buồng giam
bằng cách bám theo đường ống dẫn nước cao 30m. Sau đó, vẫn theo đường ống dẫn
nước cao 15m, họ tụt xuống mặt đất rồi vượt qua 2 lớp hàng rào thép gai cao
3,7m. Cuối cùng, họ đến chiếc tháp đặt bồn chứa nước nằm cạnh bờ biển. Tại đây,
họ giở chiếc bè ra rồi dùng bầu hơi của cây đàn Acordion mà John Anglin đã tháo
ra từ trước, bơm căng chiếc bè.
Theo kế hoạch, nhóm
vượt ngục dùng bè đến đảo Angel, cách nhà tù Alcatraz 16km. Để tránh dòng hải
lưu chảy rất mạnh, họ vòng lại vịnh ở phía đối diện Alcatraz rồi vượt qua eo biển
Raccon để cập bờ thuộc quận Marin. Khi đã lên bờ, họ sẽ tìm cách ăn cắp một chiếc
xe hơi, đột nhập một cửa hàng quần áo để lấy trang phục rồi chia tay, ai đi đường
nấy.
Truy tìm tung tích
7h15 sáng 12/6/1962,
vụ vượt ngục bị phát hiện khi các quản giáo tiến hành điểm danh từ nhân như mọi
ngày. Lệnh báo động đỏ lập tức được ban hành và việc mở cửa cho tù nhân ra lao
động ở các xưởng làm găng tay, xưởng đồ gỗ, xưởng cơ khí bị hủy bỏ. Ngay cả bộ
phận tù nhân làm bếp, giặt quần áo cũng phải ngồi im trong buồng giam. Trong
quá trình khám xét, chẳng khó khăn gì để tìm ra kẻ đồng lõa là West vì anh ta
không thể nào làm cho cái lỗ đã đào ở phía sau tấm lưới sắt che cửa thông gió
trở lại hình dạng như cũ. Theo lời khai của West, FBI nắm được con đường đào
thoát, kế hoạch trộm xe, trộm quần áo của Morris và anh em Anglin.
8 giờ sáng, 12 tàu
tuần duyên của cảnh sát biển California và 3 trực thăng tiến hành tìm kiếm trên
vùng nước xung quanh nhà tù Alcatraz, kéo dài cho đến vịnh San Francisco. Mặt
khác, FBI vừa phát hành lệnh truy nã đỏ, vừa bí mật giám sát nơi ở các thân
nhân của Morris, John và Clarence. Đến ngày 14/6, trực thăng phát hiện một tấm
gỗ có xuất xứ từ những kiện hàng vật tư của công ty sản xuất găng tay gửi đến
nhà tù để gia công. Theo suy luận của FBI, nhóm vượt ngục dùng tấm gỗ ấy làm chỗ
ngồi trên bè. Cũng trong ngày này, các thủy thủ trên một tàu đánh cá vớt được 1
chiếc ví, bên trong có hình ảnh, tên và địa chỉ một số người thân của John
Anglin.
Ngày 21/6, FBI thu được những mảnh áo mưa, dạt vào bờ biển không xa cầu Cổng Vàng (Golden Gate Bridge). Đến chiều, 1 chiếc thuyền của nhà tù Alcatraz tìm thấy một phao nhỏ làm từ áo mưa cách Alcatraz 46m nhưng những kẻ vượt ngục thì vẫn bặt vô âm tín. Theo FBI, rất có thể Morris và anh em Anglin đã chết bởi nhiệt độ nước biển lúc đó rất lạnh, chỉ 7 độ. Các thực nghiệm tại hiện trường cho thấy với các thiết bị tương tự như của nhóm vượt ngục, những người tham gia thực nghiệm đều bị dòng hải lưu cuốn ra Thái Bình Dương rồi kiệt sức vì ướt và lạnh.
Luận cứ này càng được
củng cố vì ngày 17/7/1962, một tàu chở hàng của Na Uy là chiếc SS Norefjell
trên đường đi Canada đã nhìn thấy một thi thể nổi trên mặt nước cách cầu Cổng
Vàng 32km về phía tây bắc. Theo các thủy thủ, thi thể mặc chiếc quần dài bằng vải
Denim - là loại vải thường dùng để may y phục cho tù nhân nhưng khi tiến hành vớt
xác rồi nhận dạng thì đó là xác của Cecil Phillip Herman, một thợ làm bánh 34
tuổi, thất nghiệp, đã nhảy cầu Cổng Vàng tự tử. Bên cạnh đó, suốt một tháng sau
vụ vượt ngục, không có bất kỳ một chiếc ô tô và tiệm quần áo nào ở San
Francisco và các vùng phụ cận xảy ra trộm cắp nhưng vẫn có ý kiến cho rằng
nhóm vượt ngục đã dựng hiện trường giả là bị chết đuối nhằm đánh lạc hướng điều
tra.
Dấu vết đáng ngờ
Tháng 1/1965, một
thông tin gửi đến FBI cho biết Clarence Anglin hiện đang sống ở Brazil nhưng
theo các đặc vụ, họ không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của anh ta ở đất nước
này. Năm 1967, một tay đua ngựa ở bang Maryland nói với FBI rằng suốt 5 năm
qua, ông ta là hàng xóm của Morris nhưng đó cũng chỉ là tin vịt. Chi tiết đáng
lưu ý nhất là từ năm 1964, lễ Giáng sinh năm nào gia đình Anglin cũng nhận được
một bưu thiếp, khi thì ký tên “Jerry”, khi thì ký “Jerry và Joe” - là tên thường
gọi của John Anglin và Clarence Anglin lúc còn bé. Năm 1989, khi cha của anh em
nhà Anglin qua đời, trong đám tang có sự xuất hiện của 2 người lạ mặt, để râu,
đứng trước quan tài vài phút rồi bỏ đi mất.
Ngày 12/1/2018,
nghĩa là 56 năm kể từ khi xảy ra vụ vượt ngục Alcatraz, sở cảnh sát TP.San
Francisco, bang California bất ngờ công bố một lá thư viết tay của John Anglin,
gửi đến đồn cảnh sát TP.Richmont năm 2013. Nội dung bức thư nói rằng kể từ khi
trốn thoát, John sống nhiều năm ở TP.Seattle, bang Oregon và 8 năm ở bang North
Dakota. Tại thời điểm viết thư, căn cứ trên dấu bưu điện, John được cho là đang
sống ở miền Nam Califorina.
Cũng theo bức thư, cả
Morris lẫn Clarence đều đã chết vào các năm 2005, 2008: “Tôi là John Anglin,
người đã cùng Clarence Anglin và Frank Lee Morris trốn thoát khỏi nhà tù
Alcatraz hồi tháng 6/1962. Tôi đã 83 tuổi, thân xác tiều tụy vì mắc phải bệnh
ung thư. Nếu quý vị (ý nói cảnh sát) thông báo công khai trên truyền hình rằng
tôi sẽ không phải vào tù trở lại và được chăm sóc y tế thì tôi sẽ cho quý vị biết
chỗ ở chính xác của tôi. Đây không phải là chuyện để đùa”.
Theo cảnh sát San
Francisco, sau khi nhận được bức thư, cả lực lượng cảnh sát bang
California lẫn FBI đã bỏ ra suốt 5 năm để truy lùng dấu vết của John Anglin
nhưng không kết quả. David Widner, cháu của anh em Anglin xác nhận rằng bà ngoại
ông (mẹ của John Anglin và Clarence Anglin) đã từng “nhận được những bưu thiếp
Giáng sinh của bác John và hoa hồng của bác Clarence nhân ngày sinh nhật.
Gần đây, một chương
trình nhận dạng khuôn mặt của một công ty ở Ireland sau khi xử lý loạt dữ liệu
phát hiện hình ảnh được cho là anh em Anglin trong một bức ảnh được chụp tại
Brazil 13 năm sau khi 2 tên này trốn thoát khỏi nhà tù Alcatraz. Sau khi kiểm
tra bức ảnh chụp vào năm 1975 với sự xuất hiện của 2 người đàn ông tóc dài đeo
kính râm, hệ thống xác nhận họ là John và Clarence Anglin với xác suất 99,7%.
Tuy nhiên ngoài công bố trên thì chưa có bất kỳ thông tin hay bằng chứng xác thực
nào khác về sự xuất hiện của anh em nhà Anglin tại Brazil sau khi trốn khỏi nhà
tù.
Rất nhiều manh mối,
rất nhiều giả thuyết đã được đưa ra nhưng phải nói rằng cho đến nay, sự khét tiếng
của nhà tù Alcatraz đã làm cho vụ vượt ngục của 3 kẻ trên càng trở nên huyền bí
và tò mò. Bất kể thế nào, những tù nhân này đã khiến cho cả cảnh sát và dư luận
phải nhức đầu tìm kiếm thông tin và đoán già đoán non. Họ đã chết đuối hay trốn
thoát thành công vẫn là câu hỏi mà đến nay chưa có đáp án.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.