Trong
bài trước, tôi đề cập đến thân phận lưu vong như những người sống trên cái dấu
gạch nối giữa hai quốc gia, hai văn hoá và hai ngôn ngữ.
Sống
trên cái gạch nối giữa Việt và Úc, tôi không phải là kẻ rời bỏ quê hương: Tôi
chỉ rời bỏ một mảnh đất và mang cả quê hương theo với mình: Cái quê hương ấy,
với tôi, như vậy, là một quê hương bị giải lãnh thổ hoá
(deterritorialised): Nó không có tính địa lý. Nó chỉ còn là một ký ức, nhưng,
nghịch lý thay, đó lại là một thứ ký ức có tính địa lý, có thể được gọi là địa
dư ký ức (geography of memory). Khi được hình dung như một thứ địa dư, ký ức
bỗng có kích thước thật và mênh mông hơn hẳn: Nó trở thành một thứ quê hương
khác của tôi (1).
Hệ
quả là: Không phải tôi sống với ký ức. Mà là sống trong ký ức. Ký
ức không ở trong tôi. Ký ức bao trùm lấy tôi. Ký ức rộng hơn bản thân tôi. Ký
ức, với người khác, có tính trừu tượng, với tôi, có tính vật thể; với người khác,
là quá khứ, với tôi, vẫn là hiện tại: Tôi sống trong tình trạng xuyên thời
gian (transtemporarity) và xuyên lịch sử (transhistory) liên tục.
Với
Việt Nam ,
trong địa dư ký ức và trong tình trạng xuyên thời gian và xuyên lịch sử như
thế, tôi vẫn giữ được cái hồn. Nhưng lại không có đất.
Nếu
với Việt Nam ,
cái gọi là xuyên thời gian và xuyên lịch sử ấy chủ yếu là việc quay ngược về
quá khứ; với Úc, nó lại mở ra theo một hướng khác: tương lai. Tôi sống ở Úc đã
trên 20 năm, vẫn chưa thấy mình là người Úc. Không phải không muốn. Nhưng không
thể. Giới nghiên cứu về di dân học chia khái niệm công dân thành hai phạm trù:
công dân về phương diện pháp lý (legal citizenship) và công dân về phương diện
văn hoá (cultural citizenship). Để trở thành một công dân về phương diện pháp
lý, chỉ cần có quốc tịch, một điều kiện khá dễ và khá nhanh. Nhưng để trở thành
một công dân về phương diện văn hoá, nghĩa là để có thể hành xử, suy nghĩ và
cảm xúc y như một người bản xứ, lại rất khó và cần nhiều thời gian, có khi dài
hơn cả một đời người. Thành ra, với tôi, Úc vừa là hiện tại lại vừa là tương
lai. Nó vừa ở dưới chân lại vừa thấp thoáng ở đâu đó, trước mặt, xa lắc.
Với
Úc, như vậy, tôi có đất. Nhưng lại không có được cái hồn. Hoặc chỉ có một phần.
Rất nhỏ.
Nhưng
cái gọi là “hồn Việt” hay “hồn Úc” ấy, về phương diện lý thuyết, đều là những ý
niệm rất mơ hồ; về phương diện thực tế, nói theo Stuart Hall, vừa là cái “là”,
một hữu thể (being) vừa là cái đang-trở-thành (becoming), một tiềm thể (2).
Nhìn từ quan hệ giữa người lưu vong và quê gốc, cái “đang-trở-thành” ấy cũng
đồng thời là một quá trình rơi rụng, hao hụt, phôi pha dần. Dần dần. Trong bài
“Chốn tạm dung”, sáng tác vào tháng 5 năm 1977, tức chỉ mới sau hai năm rời
khỏi Việt Nam, nhà thơ Cao Tần đã ngậm ngùi nhận thấy “Hồn Việt trong ta ngày
mỗi khô” (3). Mới hai năm mà đã thế...
Xuyên
quốc gia, xuyên văn hoá và xuyên ngôn ngữ là các quan hệ theo chiều ngang;
xuyên thời gian và xuyên lịch sử là các quan hệ theo chiều dọc. Sống như một
người lưu vong là sống trong một không gian mở. Mở và trống. Không có chỗ dựa
vững chắc, cái không gian mở và trống ấy thành một khoảng chân không. Chỉ có
gió: tôi đong đưa. Chỉ có nước: tôi bềnh bồng. Cứ thế, tôi trôi nổi trong cả
hai chiều không gian lẫn thời gian, cả hiện tại lẫn quá khứ và tương lai. Cái
gọi là bản sắc của tôi là những gì tôi phải tự kiến tạo lấy. Kiến tạo rồi kiến
tạo lại, liên lỉ, trên cơ sở của cả ký ức lẫn tưởng tượng, của cả hoài niệm lẫn
hoài bão, của cả sự khép kín lẫn sự cọ xát, của cả đất khách lẫn quê nhà. Và
cuối cùng, như là hệ quả của những điều vừa kể, bao giờ nó cũng có tính chất
lai ghép.
Viết,
với một thứ bản sắc lai ghép và trong không gian của một cái gạch nối
nhỏ-xíu-mênh-mông-không-ngừng-giao-động như thế, tôi không thể giống hẳn những
người Úc thực sự, ngay cả những người Úc đồng nghiệp ngồi viết lách sát bên
tôi. Tôi có những thao thức khác: thao thức về Việt Nam , trong đó, có cả tiếng Việt,
thứ tiếng nói có khả năng va chạm vào từng sợi dây thần kinh nhục cảm của tôi:
Chỉ với nó, tôi mới thấy thật “đã” khi cầm bút (4). Tôi cũng không thể giống
hẳn những người Việt Nam cầm
bút ở Việt Nam .
Tôi có những bận tâm khác: bận tâm về ký ức, về tương lai, về môi trường đa văn
hoá, về ý niệm sở thuộc (belonging) và biên giới, về màu da (5), về kinh nghiệm
vượt biên (6) và bị kỳ thị, về một thứ bản sắc kép (double identity), và đặc
biệt, về ám ảnh của cái khác, không phải chỉ những cái khác ở ngoài mà còn
những cái khác của chính tôi.
Thật
ra, trong cái nhìn phản tỉnh, cái tôi (self) bao giờ cũng là một cái khác. Ngay
từ giai đoạn đầu của chủ nghĩa hiện đại, ở cuối thế kỷ 19, Arthur
Rimbaud đã từng tuyên bố: “Tôi là một cái khác” (Je est un autre); sau đó,
Jacques Lacan, một lý thuyết gia thuộc trường phái hậu cấu trúc luận, cũng đồng
ý: “Cái tôi luôn luôn thuộc phạm vi của cái khác”. Có điều, cái khác trong diễn
ngôn lưu vong khác cái khác trong cách nhìn của cả Rimbaud lẫn Lacan: Cái
khác, ở những người lưu vong, không phải chỉ là hệ quả của việc khách thể hoá,
như một điều kiện của tiến trình tự nhận thức. Nó thuộc bản thể luận. Nó là cái
khác vì nó không có quan hệ với bất cứ cái gì cả. Cái tôi của người lưu vong là
cái khác giữa vô số những cái khác.
Cái
khác nào cũng cô đơn và cũng lạc loài. Nhưng khi nằm giữa những cái khác khác,
cái khác ấy trở thành một sự lai ghép. Lai ghép khác.
Xin
lưu ý: bản sắc của mọi người lưu vong đều là bản sắc lai ghép. Khi lai ghép như
vậy, người ta không ngừng tái cấu trúc ký ức cũng như tưởng tượng tập thể,
không ngừng xây dựng những tự sự lưu vong và những tu từ học về sở thuộc (rhetoric
of belonging) cũng như viết lại lịch sử để tự định nghĩa hoặc định nghĩa lại
chính mình trong một hoàn cảnh mới, nơi khái niệm quốc gia hoàn toàn thay đổi,
cơ hồ thành hậu-quốc gia (postnation), và với một thứ tinh thần quốc gia
mới, nói theo chữ của Glick-Schiller và Fouron, chủ nghĩa quốc gia
viễn cách (long-distance nationalism) (7). Từ xa.
Những
vấn đề nêu trên đã được nhiều học giả nghiên cứu, có người nghiên cứu một cách
sâu sắc và đưa ra những kiến giải độc đáo. Tuy nhiên, như Hamid Naficy nhấn
mạnh, “những người biệt xứ không trải nghiệm sự lưu vong bằng nhau và giống
nhau”, do đó, “diễn ngôn lưu vong thường có tính chi tiết, tính đặc thù và
tính địa phương” (8).
Nói
cách khác, kinh nghiệm lưu vong của mỗi cộng đồng, tuỳ lịch sử, chính trị, xã
hội và văn hoá, khác nhau; trong từng cộng đồng, kinh nghiệm của mỗi người, tuỳ
hoàn cảnh, tuổi tác, học vấn, nghề nghiệp, tâm lý, phái tính và thời gian cư
ngụ ở nước ngoài, cũng khác nhau. Viết về kinh nghiệm lưu vong mà chỉ tập trung
vào các nhà văn Mỹ tự lưu vong ở Pháp, như Gertrude Stein, Ezra Pound và
Ernest Hemingway, giữa hai cuộc thế chiến, người ta chỉ thấy những cuộc phiêu
lưu ngọt ngào và đầy lý thú; nhưng chỉ cần quay mắt nhìn sang các nhà văn Nga
và Đông Âu lưu vong ở Tây phương sau năm 1917, người ta sẽ thấy rất nhiều màu
sắc bi kịch; nhìn vào giới cầm bút đến Tây phương từ các nền văn hoá khác, như
châu Phi và châu Á, tính chất bi kịch ấy càng đậm nét hơn nữa.
Với
người từ châu Á, để cho tiện, các học giả ngành Lưu vong học ở Mỹ thường tóm
gọn vào một chữ “người Mỹ gốc Á” (Asian-American), nhưng như Lisa
Lowe phân tích, cái gọi là người Mỹ gốc Á ấy lại rất hỗn hợp, lai ghép và
rất đa dạng. Nó khác nhau theo cả chiều dọc (vertical), từ thế hệ này đến thế
hệ khác, và theo cả chiều ngang (horizontal) với những sắc tộc, những giai cấp
và những giới tính khác nhau. Cũng gốc Á, nhưng giữa người Việt và người Tàu,
người Nhật, người Đại Hàn, người Ấn Độ, người Phi Luật Tân, v.v. có rất nhiều
khác biệt. Ngay người Tàu cũng không thuần nhất: những người đến từ Đài Loan,
Hong Kong và Trung Hoa lục địa có những khác biệt không những về lịch sử, chính
trị mà còn cả về ngôn ngữ và ký ức tập thể (9).
Liên
quan đến ngôn ngữ, con đường hội nhập vào văn học chính mạch ở Tây phương của
một số nhà văn Ấn Độ như V.S. Naipul hay Salman Rushdie, những người học
tiếng Anh và chịu ảnh hưởng của văn hoá Anh ngay từ nhỏ chắc chắn nhiều thuận
lợi hơn những người cầm bút tị nạn chỉ mới bắt đầu học tiếng Anh từ lúc rời
khỏi đất nước của họ. Rồi trong thành phần sau, lại có những khác biệt rất lớn
về tuổi tác. Cùng sinh ở Việt Nam, nhưng kinh nghiệm lưu vong của nhà văn Linda
Lê, có mẹ Pháp, nói tiếng Pháp từ lúc mới lọt lòng, sang Pháp từ năm 14 tuổi,
và nhà văn Trần Vũ, sinh ra trong gia đình Việt Nam, sang Pháp lúc 17 tuổi,
khác nhau nhiều lắm. Một trong những cái khác dễ thấy nhất là ngôn ngữ họ sử
dụng: Một người chọn viết tiếng Pháp và một người chọn viết tiếng Việt (cũng có
thể nói, cách khác: một người bị tiếng Pháp chọn và một người bị tiếng Việt
chọn). Trong tiếng Anh, có một cách viết lồng hai chữ “word” (từ) và “world”
(thế giới) vào nhau một cách thú vị: wor(l)d. Ngôn ngữ và thế giới là một.
Ngôn ngữ của một người chính là thế giới của người đó (10).
Khi ngôn ngữ khác
nhau mọi thứ khác sẽ khác theo. Không nhiều thì ít. Nhưng không thể tránh được.
Do
đó, mọi nỗ lực khái quát hoá và phạm trù hoá đều trở thành bất cập, nếu không
muốn nói là vô vọng. Kiểu người mù rờ voi: nắm được chỗ này thì vụt mất chỗ
khác. Không bao giờ người ta có thể có được một cái nhìn toàn cảnh và toàn
diện. Kiến thức nào cũng có tính chất phân mảnh. Mọi tự sự đều là những tiểu tự
sự. Nho nhỏ. Vừa có tính thời điểm vừa có tính địa phương.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng
Chú
thích:
1_Quan
niệm cho “ký ức như một thứ quê hương khác” đã được nhiều người đề cập. Ví dụ,
Arjun Appadurai trong bài “Disjuncture and difference in the global
cultural economy” in trong cuốn Theorizing Diaspora do Jana Evans
Braziel & Anita Mannur biên tập, Blackwell xuất bản tại Oxford, 2003, tr.
29. Ở Úc, Natalie H.C. Nguyen có một cuốn sách nhan đề: Memory is Another
Country: Women of the Vietnamese Diaspora (2009).
2_Stuart
Hall, “Cultural identity and diaspora”, in trong cuốn Theorizing Diaspora do
Jana Evans Braziel & Anita Mannur biên tập, Blackwell xuất bản tại
Oxford, 2003, tr. 236.
3_Cao
Tần (1987), Thơ Cao Tần ,
California : Văn Nghệ, tr. 47.
4_Nhớ,
Linda Lê, nhà văn Pháp gốc Việt, viết một câu thật thấm thía: “Viết bằng thứ
ngôn ngữ không phải của mình là làm tình với một xác chết.” (“To write in a
language that is not one’s own is to make love with a corpse”. Dẫn theo Martine
Delvaux, “Linda Lê and the Prosthesis of Origin”, in trong cuốn Immigrant
Narratives in Contemporary France do Susan Ireland và Patrice J.
Proulx biên tập, Greenwood Press xuất bản năm 2001, tr. 201.)
5_Ở
Việt Nam ,
tôi nghĩ mình da trắng; đến lúc ra ngoại quốc, sống ở Tây phương, tôi mới biết
mình da... vàng. Nhiều người Phi châu, cũng vậy, đến lúc qua Mỹ sống, họ mới
biết họ... da đen! (Xem cuốn Asian Diasporas: New Formations, New
Conceptions do Rhacel S. Oarrenas & Lok C. D. Siu, Stanford
University Press xuất bản năm 2007, tr. 225.)
6_Không
phải lần vượt biên để rời Việt Nam
mà là vô số những lần vượt qua biên giới ngôn ngữ và văn hoá, những điều hầu
như xảy ra hằng ngày, thậm chí, hằng giờ, hằng phút.
7_Nina
Glick-Schiller & Georges Eugene Fouron (2001), Georges Woke
Laughing: Long-Distance Nationalism and the Search for Home, Durham : Duke University Press.
8_Hamid
Nacify (biên tập) (1999), Home, Exile, Homeland: Film, Media, and the
Politics of Place, New York :
Routledge, tr. 4. Dẫn theo Lisa Ryoko Wakamiya (2009), Locating
Exiled Writers in Contemporary Russian Literature: Exiles at Home, New York : Palgrave
Macmillan, tr. 6.
9_Lisa
Lowe, “Heterogeneity, hybridity, multiplicity: Marking Asian-American differences”
in trong Jana Evans Braziel & Anita Mannur (biên tập) (2003), tr. 132-155.
10_Trong
Tractatus Logico-Philosophicus (1922), Ludwig Wittgenstein có một câu viết nổi
tiếng: “Những giới hạn của ngôn ngữ tôi cũng có nghĩa là những giới hạn của thế
giới tôi.”
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.