Quan
hệ Việt-Mỹ đã được nâng lên đối tác toàn diện hồi tháng Bảy năm 2013
Những
ngày gần đây quan hệ Việt-Mỹ cũng nóng dần theo hàn thử biểu của Thủ đô Hoa
Thịnh Đốn.
Dường
như hai quốc gia “cựu thù” đang cố gia tốc trong việc nâng cấp quan hệ song
phương thông qua đàm phán và vận động hành lang để Hoa Kỳ sớm hủy bỏ lệnh cấm
vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam .
Động
thái này được các nhà quan sát đánh giá như một chỉ dấu quan trọng trong phát
triển quan hệ Mỹ-Việt, nhưng không phải là không có hậu quả.
Tin
từ Hoa Thịnh Đốn cho biết có nhiều khả năng Tòa Bạch Ốc sẽ sớm bỏ lệnh cấm vận
vũ khí sát thương đối với Việt Nam
nội trong năm nay.
Động
thái này chắc chắn sẽ làm Trung Quốc bực tức, quốc gia sẽ xem Hoa Kỳ trong
chừng mực nào đó như Hoa Kỳ đã từng xem viện trợ quân sự của Liên Xô tới Cuba
trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”.
Tuy
nhiên, chắc chắn không vì phản ứng của Trung Quốc mà Hoa Kỳ do dự, lý do chính
đang lãng vãng đâu đó trong những “toan tính chính trị” của cả Hoa Kỳ lẫn Hà
Nội.
Việc
dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương có thể được xem như là một bước tiếp theo
hợp lý trong việc thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt sau khi Tổng thống Obama và Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang ký kết Thỏa ước Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam
vào ngày 25 tháng 7 năm 2013 tại Tòa Bạch Ốc.
Chắc
chắn, với Hoa Kỳ trong chiến lược “chuyển trục và tái cân bằng” sang châu
Á-Thái Bình Dương, cải thiện và tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực
trong đó có cả Việt Nam
dường như là một bước đi cần thiết.
Lập
pháp Hoa Kỳ hôm 31/7 đã chính thức mở đường qua việc Hạ nghị sĩ Randy Forbes
thuộc đảng Cộng hòa, Chủ tịch Tiểu ban Hải lực và Triển khai lực lượng của Hạ
viện và Colleen Hanabusa thuộc đảng Dân chủ, thành viên của Ủy Ban Quân Sự Hạ
viện, bày tỏ mối quan tâm chung trong việc cung cấp các thiết bị quốc phòng cho
Việt Nam.
Vấn
đề dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương của Mỹ cho Việt Nam đã được liên tục đề
cập trong thời gian gần đây, điển hình ông Ted Osius, ứng cử viên cho chức danh
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, cũng cho là đã đến lúc cần ủng hộ ý tưởng “hủy bỏ
lệnh cấm vận” nói trên trong buổi điều trần đề cử ông tại Ủy ban Đối ngoại của
Thượng viện Hoa Kỳ.
Trước
đó, Đại sứ đương nhiệm David Shear hồi tháng 8 năm ngoái cũng từng khẳng định
rằng Hoa Kỳ sẽ “nghiêm túc xem xét việc bỏ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam , nhưng kèm
theo một số điều kiện”.
Ngoài
Quốc hội và một số viên chức ngoại giao Hoa Kỳ, Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế
(CSIS), cũng nhập cuộc với một báo cáo công bố mới nhất có tiêu đề "Xu hướng
gần đây ở Biển Đông và chính sách của Mỹ," CSIS thẳng thắn đề nghị Hoa Kỳ
nên triển khai một “lộ trình thích hợp để cho phép nới lỏng từng bước các hạn
chế,” cho thấy phiá Mỹ dường như đã sẵn sàng cho cuộc chơi mới.
Hủy
bỏ lệnh cấm vận luôn là đặc quyền của Tổng thống Hoa Kỳ nhưng tất nhiên nếu
không có sự hậu thuẩn từ lập pháp và của lưỡng đảng thì thực sự điều đó rất khó
có thể xảy ra như chúng ta đã từng chứng kiến sự kiện cách đây 20 năm vào ngày
3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton chính thức thông báo quyết định bãi bỏ lệnh
cấm vận thương mại đối với Việt Nam với sự hậu thuẫn lưỡng đảng của hai Thượng
nghị sĩ Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam John McCain (Cộng hòa) và John
Kerry (Dân chủ).
Liệu
lịch sử có đang tái lập trong chuyến thăm Việt Nam bất ngờ ngày 7/08/2014 của
Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain và người đồng viện Dân chủ Sheldon
Whitehouse?
Tin
mới nhất từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội cho biết phái đoàn Hoa Kỳ sẽ thảo luận
với quan chức lãnh đạo Việt Nam
về các vấn đề an ninh khu vực, nhân quyền và thương mại.
Cũng
cần nói thêm rằng chuyến thăm của hai vị Thượng nghị sĩ này chỉ diễn ra
vài ngày sau chuyến công du của Thượng nghị sĩ Bob Corker, một thành viên
cao cấp thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ.
Ông
Corker được tường thuật là đã "bày tỏ lạc quan rằng Hoa Thịnh Đốn sẽ
dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam trong tương lai gần.”
Yêu
cầu “bán vũ khí có điều kiện”
Hồ
sơ nhân quyền của Việt Nam
vẫn là chướng ngại vật trong quan hệ với Hoa Kỳ
Tuy
nhiên, không phải không có lý do để quan ngại nếu lệnh cấm vận này cần được bãi
bỏ.
Một
quyết định đơn phương của Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt
Nam vô điều kiện là điều vô cùng thiển cận, nhất là lại tạo thêm cơ hội cho sự
lạm dụng không cần thiết từ phiá Hà Nội.
Chính
phủ Việt Nam đã hứa hẹn gì
và quan trọng nhất là Hà Nội đã đảm bảo gì với Hoa Kỳ rằng họ sẽ không sử dụng
những vũ khí này để chống lại nhân dân Việt Nam ? Liệu Hà Nội có là một đối tác
đáng tin cậy? Thành tích nổi bật “nhân quyền” của họ đâu phải là chuyện mới hôm
qua và cả thế giới này có ai còn lạ gì luận điệu của họ!
Mặc
dù các vị Nghị sĩ Forbes và Hanabusa có cho rằng việc bán vũ khí theo dự kiến
của Hoa Kỳ sẽ không bao gồm các mặt hàng có thể được sử dụng để kiểm soát đám
đông hoặc các mục đích nội địa, nhưng vũ khí luôn là vũ khí dù ở bất kỳ thể loại
nào nó vẫn luôn có khả năng quay lại bắn vào người dân.
Một
khẩu súng chỉ đơn giản là một công cụ, vấn đề là người xử dụng nó và cho mục
đích gì; người đó có thể là một viên chức công an hoặc một quân nhân ngoài mặt
trận mà quyết định cuối cùng của họ là dùng khẩu súng đó để bắn ai hay cái gì.
Nếu
không có hành động cụ thể, lời nói đơn giản chỉ là vô nghĩa, và Hà Nội đã từng
làm thất vọng ê chề cộng đồng quốc tế bằng sự thờ ơ trong các yêu cầu cải thiện
điều kiện nhân quyền. Human Rights Watch, Tổ chức Ân xá Quốc tế, các quốc gia
trong Liên minh châu Âu, Australia, Canada cũng như chính Hoa Kỳ đã từng lên
tiếng cảnh báo nghiêm khắc các hạn chế về nhân quyền ở Việt Nam và khuyến cáo
Hà Nội cần có nỗ lực mạnh mẽ nhưng tình trạng nhân quyền Việt Nam thì ngày càng
trở nên xấu đi một cách tồi tệ.
Nếu
thật sự Tổng thống Obama và Quốc hội Hoa Kỳ quyết tâm hủy bỏ lệnh cấm vận vũ
khí sát thương cho Việt Nam, dứt khoát Hoa Thịnh Đốn cần phải đặt điều kiện hết
sức nghiêm túc cho những thương vụ đặc biệt này.
Hoa
Kỳ cần làm cho Hà Nội hiểu rỏ rằng Hoa Kỳ không cần bán vũ khí cho Việt Nam và
chắc chắn Việt Nam cũng không nhất thiết cần phải mua vũ khí từ Hoa Kỳ mà đây
là một “lựa chọn chiến lược” phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước và
quyền lợi của hai quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam.
Như
vậy, việc cung cấp vũ khí cho Việt Nam sẽ tùy thuộc vào sự cải thiện
nhân quyền cụ thể của Hà Nội theo một lộ trình đã được ấn định trước.
Ngoài
ra, trong khi Hoa Kỳ chưa cung cấp công nghệ quốc phòng hiện đại nhất cho Việt
Nam, Hoa Kỳ vẫn phải nghiên cứu nghiêm túc khả năng rất thực tế là những vũ khí
này có thể rơi vào tay Trung Cộng, một cách vô tình hay cố ý. Và tuy không kém
phần quan trọng, Tổng thống Obama và Quốc hội Hoa Kỳ cũng phải quyết định xem
liệu họ có thể tin tưởng vào quân đội Việt Nam để giữ cho những vũ khí này
không lọt vào tay một lực lượng bất hảo nào đó.
Tháo
bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương là bước tiến lớn tiếp theo của Mỹ có thể làm
trong việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Việt Nam .
Tuy
nhiên, đó là một bước đi quan trọng đòi hỏi phải có tranh luận rộng rãi, minh
bạch và được đánh giá nghiêm túc cả về lợi ích lẫn cạm bẫy.
Nếu
gắn liền với cải thiện nhân quyền, tháo dỡ lệnh cấm vận vũ khí sát thương là
bước đầu tiên đầy hứa hẹn cho một cơ hội cải cách lớn hơn ở Việt Nam .
Tuy
nhiên, nếu không có điều kiện nhân quyền kèm theo và Mỹ thất bại trong việc đảm
bảo Việt Nam tuân thủ, việc làm này không những chẳng giúp ít được gì cho chiến
lược chuyển trục của Hoa Kỳ trong khu vực mà còn là cơ hội trang bị cho lực
lượng an ninh Việt Nam có thêm vũ khí chống lại nhân dân Việt Nam.
Không
giống như quan hệ Mỹ-Việt, số phận của lệnh cấm vận này khá ư phức tạp.
Mặc
dù có những “tiến bộ” đáng kể trong quan hệ song phương cũng như có “nhu cầu
chiến lược” thực tiễn nhưng Hoa Kỳ vì quyền lợi tối thượng của nuớc Mỹ và nhân
dân Mỹ dứt khoát không thể bỏ qua những khát vọng cháy bỏng yêu chuộng tự do,
dân chủ, nhân quyền của nhân dân Việt Nam.
Nếu
Hoa Kỳ đảm bảo được rằng Hà Nội sẽ triệt để tuân thủ theo các quy định của Mỹ,
sự nới lỏng từng bước các hạn chế của lệnh cấm vận này có thể đạt được giá trị
tối ưu của nó.
Luật
sư Vũ Đức Khanh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.