Hoa
Kỳ bắt đầu oanh kích Bắc Việt Nam sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ tháng
8/1964
Đúng
ngày này (5/8) năm mươi năm trước có một chú bé lon ton chạy theo ba từ nhà
trên phố Lý Nam
Đế ra thành Cửa Đông.
Lưng
đeo một chiếc ba lô tí xíu, đầu đội mũ nan, chân xỏ dép cao su, mặc quần soóc,
sơ mi cộc tay chú bé hăm hở leo lên chiếc xe ca quân sự đỗ cách cổng thành
không xa.
Ngồi
trên xe, chú bé và bạn bè cùng trang lứa bi bô nói cười, đôi lúc còn đồng thanh
hát vang những bài ca nhi đồng thời đó nữa.
Đám
trẻ khoảng bốn mươi đứa cả trai lẫn gái là con các sĩ quan Cục Tuyên huấn, Tổng
cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam .
Bọn
chúng sắp được chiếc xe ca chở vào bãi biển Sầm Sơn, Thanh Hóa cách Hà Nội gần
hai trăm kilomet để nghỉ một tuần.
Lần
đầu tiên được nhìn thấy biển, lần đầu tiên được ngồi ô tô cùng chúng bạn đi
trên chặng đường dài, chú bé và đám trẻ háo hức lắm, phấn khích lắm.
Đúng
ngày này năm mươi năm trước, hàng trăm chiếc máy bay ném bom của Mỹ từ nhiều
hướng ồ ạt xuất kích, tấn công vào miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại
sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Thủ
đô Hà Nội hôm đó vẫn yên ắng nhưng nhiều tỉnh bắc Trung Bộ và ven biển đã rung
lên trong tiếng bom rền rĩ. Cuộc đánh trả ngoan cường của quân dân miền Bắc
trong ngày này khiến nhiều máy bay Mỹ bị bắn rơi, trung úy Andrew là viên phi
công đầu tiên bị bắt sống trong cuộc chiến tranh khi đang thực hiện nhiệm vụ
trên vùng trời tỉnh Quảng Ninh.
Tin
tức từ các mặt trận báo về, quân chủng hải quân và phòng không quân đội nhân
dân cùng dân quân tự vệ ra quân chiến thắng làm nhiều người nức lòng nhưng cũng
làm một số ai đó lo lắng.
Cuộc
chiến tranh bắt đầu lan ra miền Bắc với mức độ khốc liệt ngày càng tăng.
Chờ
mãi không thấy xe chuyển bánh, nhưng bọn trẻ vẫn hồn nhiên, lăng xăng, cười
đùa, hát ca. Một tiếng, hai tiếng rồi ba tiếng trôi qua, càng lúc bọn trẻ càng
sốt ruột. Hỏi các chú phụ trách, bọn trẻ chỉ nhận được mỗi câu trả lời cụt lủn
„đợi lệnh trên”.
Cho
đến khi những đứa trẻ bắt đầu lả đi vì đói thì có lệnh trên truyền đến tận xe
„hoãn chuyến đi vi cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa bị ném bom”. Chú bé rưng rưng nước
mắt, bọn trẻ cũng rưng rưng nước mắt. Có đứa không cầm được cơn ấm ức đã òa
khóc khi phải bước xuống xe.
Thế
là chuyến đi nghỉ biển đầu đời hứa hẹn rất vui, rất thú vị của chú bé vĩnh viễn
không bao giờ được thực hiện.
Thế
là ngày ấy chú bé đã trở thành một trong những "nạn nhân" đầu tiên
của cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc do không quân Mỹ tiến hành kéo dài gần
năm năm.
Chim
non tách mẹ
Thế
rồi như con chim non mới ra ràng phải tách mẹ, mới sáu tuổi chú bé đã khăn gói
lên đường theo anh trai hơn nó hai tuổi trải qua những năm tháng tuổi thơ nơi
sơ tán.
Lúc
đầu là thị trấn Phùng với kỉ niệm nhiều lần theo người chị họ đi các phiên chợ
phiên. Chú bé thích thú được ngồi một bên thúng, thúng bên kia người chị họ
gánh theo khi thì một hai buồng chuối xanh, khi thì vài ba quả mít chín.
Những
hôm trời nắng chang chang chú bé thường theo trẻ trâu ra sông Đáy vớt bèo tây,
có lần bị hụt hố suýt chết đuối.
Trại
trẻ quân đội mở ra ngay sau đó nửa năm, chú bé lại theo anh trai rong ruổi làm
trại viên như những chú bộ đội con, học trường làng nhưng ăn tập thể, ngủ tập
thể.
Ngày
đó những đứa trẻ như chú bé đã tự biết làm nhiều việc như vệ sinh cá nhân, trải
chiếu, mắc màn, gấp chăn màn phẳng phiu, gọn ghẽ và đẹp mắt không thua kém các
chú bộ đội thực thụ.
Ăn
tiêu chuẩn con lính không bị đói nhưng chú bé thèm quà và nhớ ba má kinh khủng.
Thứ
bảy hàng tuần, chú bé đi bộ ra đầu làng ngóng ba má đạp xe lên thăm. Ngày ấy
làm gì có điện thoại mà báo trước nên cứ đón hú họa, bốn lần may ra được một.
Những hôm chờ đến tận chiều không thấy bóng dáng ba má đâu, chú bé lại lủi thủi
đi bộ về trại với những giọt nước mắt buồn tủi.
Bom
Mỹ giết hại người dân ở Hải Phòng 16/04/1972
Tháng,
năm đầu tiên trại là các lán lá vách đất nằm trên những triền đồi Yên Dũng, Bắc
Giang.
Một
năm sau trại chuyển về Tiên Sơn, Bắc Ninh. Máy bay Mỹ ném bom ngày càng ác
liệt, cầu Long Biên là một trong những trọng điểm đánh phá. Việc các vị phụ
huynh phải đạp xe qua cầu lên trại thăm con ngày càng trở nên nguy hiểm.
Một
năm sau trại được chuyển về đóng cố định tại xã Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Tây
cho đến ngày Mỹ ngừng ném bom miền Bắc.
Trong
ký ức một đứa trẻ học vỡ lòng rồi cấp một, hàng ngày đội mũ rơm đi học, những
khi nghe tiếng gầm rú của máy bay trên trời, nghe tiếng rung chuyển của các
loạt bom từ xa vọng đến, chú bé lại cùng các bạn và cô giáo chui xuống hầm trú
ẩn.
Trong
mắt chú bé lúc bấy giờ, chiến tranh chỉ là những cột khói bốc lên ngùn ngụt từ
kho xăng Đức Giang bị trúng bom cách chỗ sơ tán chừng mười lăm cây số, là những
chiếc máy bay bổ nhào tránh đạn nhìn rõ cả phi công Mỹ đeo kính ngồi trong
khoang lái, là những loạt đạn 12 li 7 đỏ lừ nối đuôi nhau từ quả đồi Và gần đó
bay lên bầu trời đen kịt trông rực rỡ như đêm pháo hoa, là những màn tên lửa
với đuôi khói ngoằn nghoèo đuổi theo máy bay trên bầu trời trong vắt không một
gợn mây.
Với
chú bé con, chiến tranh là một thứ gì đó rất đỗi bình thường.
Chú
bé chỉ nhận biết được sự khốc liệt của cuộc chiến qua giọt nước mắt của những
người mẹ trong xóm có con đi chiến trường không bao giờ trở về, của những người
vợ cùng thôn cầm giấy báo tử của chồng, nức nở.
Trước
mộ thân nhân ở nghĩa trang Biên Hòa 29/04/1975
Thế
rồi ba người anh của chú bé lần lượt theo ba nhập ngũ. Có người vào chiến
trường, có người ở lại hậu phương phục vụ quân đội.
Chiến
tranh ngày càng ác liệt, hàng đêm giấc ngủ chú bé không yên. Không lo cho mình,
chú bé chong mắt lo cho những người anh trai đang ở nơi hòn tên mũi đạn.
Nửa
thế kỷ đã trôi qua, mỗi khi đọc những mẩu tin đại loại như "Thượng nghị
viện Mỹ thông qua nghị quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi biển
Đông” hay "Mỹ có ý định can thiệp nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam” hay
"Hạ nghị viện Mỹ đề xuất bãi bỏ cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt
Nam", chú bé ngày ấy là tôi bây giờ lại thốt lên một câu chua xót
"Giá như ngày ấy…”
Đúng
như nhà thơ Nguyễn Duy đã từng viết "Trong các cuộc chiến tranh không có
người chiến thắng, chỉ có nhân dân bại”.
Giá
như ngày ấy "lịch sử KHÔNG chọn ta làm điểm tựa”.
Giá
như ngày ấy "chúng ta KHÔNG tình nguyện làm tiền đồn của chủ nghĩa xã hội,
KHÔNG tình nguyện làm người lính xung kích đi đầu của thời đại”.
Giá
như ngày ấy chúng ta KHÔNG hào hùng ca khúc khải hoàn "Ta tự hào đi lên!
Ôi Việt Nam
ơi!”
Giá
như ngày ấy...mẹ Việt Nam
ơi!
Trần
Quốc Quân
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.