Bữa
ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và
một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ.
Quá giản dị ! Nhất là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì
giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với
ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhất là ông Năm
sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm
vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm
thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ
để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.
Nói
rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà,
thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày
hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng
biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết " làm " một nồi
phở để đãi đôi ba ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…
Có lần, trong thư gởi về Việt
-
Ông Georges ! Ông Georges !
Georges
cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam , nghe lơ lớ
chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra
trao cho ông một điện tín, nói :
-
Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.
Ông
Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : "Đã
có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai". Điếu thuốc trên môi bỗng rơi
xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín
một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng
thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : "Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi
!". Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :
-
Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?
Tiếng
bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta
lắc mạnh :
-
Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt
bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !
Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không
hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng
"Nhưng mà… Nhưng mà…" trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu
thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :
-
Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam .
Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !
Rồi
ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như
ông mới có hai mươi tuổi !
Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu "Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai" Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp !
Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái
tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô
cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi
năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con,
chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie
Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống
thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối
xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi
xưa, bạn bè vẫn nói là "thằng Năm trúng số độc đắc" hoặc "đẻ bọc
điều mới có người vợ như vậy". Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và
nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương…
Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to
bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua
lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số
năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình
thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất
lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !
Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó "sáng" ra mới được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn "nét" lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…
*****
Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air
-
Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng
đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !
Vậy
rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng
náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.
-
Ông chờ đón bạn à ?
Ông
mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :
-
Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.
Phi
trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập.
Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương
hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc
lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông
Năm được trải rộng mênh mông…
Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu" lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có "gout". Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái "gout" để vào đâu cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhất là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu "Gái không con mà nom cũng mòn con mắt", nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !
Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air
Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : "Ông Năm !" Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : "Ông Năm…"
Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : "Sao vầy nè ?". Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : "Sao vầy nè… Trời ?". Tiếng "Trời" nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà "tụi nó" chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !
Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :
-
Thôi mình về đi em !
Tiếng
"em" thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng "em" mà đã mười
năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi
mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái
gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ,
ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng
đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật
nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :
-
Để em xách !
Tiếng "em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…
Tiếng "em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…
Ông
vói tay cầm lấy quai túi :
-
Để anh xách cho.
Bà
Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :
-
Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.
-oOo-
Về
đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi
trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :
-
Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?
Bà
Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :
-
Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.
Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !
Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :
-
Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác
rộng hơn.
Bà
Năm dịu dàng :
-
Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…
Bỗng
nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng "hai đứa" nhắc cho họ nhớ tới hoàn
cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn
đã làm họ quên đi : bây giờ "hai đứa" vẫn còn có nhau, thật sự còn có
nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn
lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào
mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.
Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :
-
Cây thánh giá này đây ?
Một
lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :
-
Để em soạn đồ ra.
Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.
Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.
Bà
Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…
Vừa
làm bà vừa nói :
-
Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi
nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết
vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.
Bà
lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :
-
Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.
Ông
Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ
nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông
đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.
Có
tiếng bà Năm nói :
-
Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.
Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răng, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !
Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…
Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :
-
Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc
trong tủ búp-phê đó.
Bà
Năm nghi ngờ :
-
Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.
Ông
Năm cười sảng khoái :
-
Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm
ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp
légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !
Bà
Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.
Một
lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn
trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng,
cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có
chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.
Ông
vui vẻ :
-
Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?
Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :
Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :
-
Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?
Ông
để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :
-
Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng
nói cho ai biết !
Rồi
cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười
năm xa nhau…
Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.
Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ?
*****
Tôi
muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được
vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi
vì…
…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở ViệtNam ,
nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. "Nhà nước
Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ
chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?". Gã cán bộ trao
giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng
chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng
lợi lộc gì cho "nhân dân". Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một
người, chật đất !
…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt
Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…
Ông
đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.
Mùa
thu đó lá rụng thật nhiều...
Tiểu
Tử
Apr
28, 2011
Đổi
mùa là làm lại một lần đời nhưng có ai ngờ loài chim chóc lại có những vụ mùa
tương lân góp sức thú vị biết dường nào ! Loài bồng-bồng thì ít khi làm ổ mà
lại đẻ trên ngọn cây cao chót vót . Loài chim này cùng với giống ...
Jul
28, 2014
Cứ
nhủ lòng thôi không về nữa. Thế mà một hai năm sau, nguôi ngoai một chút lại
thu xếp quay về. image. Hà Nội bỗng dung nhan đổi khác nhờ những cơn Gió Mùa
Ðông Bắc. Thanh niên, thiếu nữ giấu trong chiếc áo len, ...
Oct
10, 2013
Xin
kể thêm chuyện về cái anh John vui tính này. Tuần qua, anh và vợ là Chị Ba Biên
Hòa đi chợ mua thức ăn. Anh chị vào một hiệu thực phẩm của người Phi Luật Tân,
mua luôn một lúc 10 gói rau đay đông lạnh. Từ khi anh ...
May
23, 2011
Hỏi
thăm bạn bè, ai cũng đồng ý với tôi là làm việc dưới quyền một bà Xếp thì hên
xui may rủi, may thì gặp một bà Xếp đã tốt thì rất tốt, xui thì gặp một bà có
tính khí như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, chưa kể gặp bà ác ôn ...
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.