Việc
Trung Cộng mang giàn khoan HD-981 đến thăm dò dầu khí trên vùng biển thuộc chủ
quyền Việt Nam vào đầu tháng
5 vừa qua gợi lên rất nhiều phẫn nộ từ dân chúng Việt Nam . Tuy nhiên, nhìn lại, tôi nghĩ,
chúng ta nên cám ơn Trung Cộng.
Cám
ơn về nhiều việc, nhưng việc quan trọng nhất là nó làm cho người dân Việt Nam
cũng như giới quan sát quốc tế thấy rõ là chính quyền Việt Nam hoàn toàn lúng
túng trong việc đối đầu với những thử thách như thế. Sự lúng túng ấy thể hiện ở
hai điểm: Một, họ không có tầm nhìn chiến lược đủ để có thể tiên đoán các hành
động xâm lấn của Trung Cộng trên lãnh hải Việt Nam; và hai, trong nội bộ của
họ, ngay cả ở những cấp lãnh đạo cao nhất, vẫn bị phân hoá với hậu quả là sau
mấy tháng bị Trung Cộng quấy nhiễu, họ vẫn không tìm ra được một sách lược
chung nào cả.
Cám
ơn Trung Cộng còn vì lý do này nữa: Việc gây hấn ấy dập tắt ảo tưởng về người
bạn “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) với “16 chữ
vàng” (Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai) của khá nhiều người, kể cả các đảng viên. Người ta thấy rõ một điều, cái
điều trên thế giới đã có rất nhiều người thấy từ lâu: Trong quan hệ quốc tế, sự
tương đồng về ý thức hệ không quan trọng bằng lợi ích quốc gia. Điều này đã
được chứng minh một lần qua cuộc chiến tranh trên biên giới Việt Trung năm
1979. Giới lãnh đạo, nếu chưa mở mắt hẳn, có lẽ cũng thấy ngượng ngập khi phải
nhắc đến những khẩu hiệu ngu xuẩn ấy. Hệ quả là phương cách cũng như khẩu khí
của họ khi tuyên truyền sẽ đổi khác. Đổi khác ở mức độ nào thì chúng ta chưa rõ.
Lý
do thứ ba để cám ơn Trung Cộng là sự gây hấn của họ khiến hầu hết các quốc gia
ở Đông Nam Á giật mình. Trước đó, tuy ai cũng nghe rõ lời công bố ngang ngược
của Trung Cộng về con đường lưỡi bò bao trùm phần lớn Biển Đông, nhưng nhiều
quốc gia vẫn còn chút ảo tưởng là Trung Cộng chỉ đánh võ mồm, do đó, họ dễ đâm
ra ỷ y. Nay thì người ta biết rõ là Trung Cộng không chỉ nói suông.
Sự thức
tỉnh ấy là một lợi thế cho Việt Nam
nếu Việt Nam
muốn tranh thủ sự hậu thuẫn của các nước trong khu vực để thành lập một trận
tuyến chung nhằm kháng cự lại Trung Cộng, ít nhất về mặt pháp lý và chính trị.
Hơn
nữa, ở khía cạnh này, có lẽ Mỹ cũng cần phải cám ơn Trung Cộng. Mấy chục năm
trước, quan hệ giữa Mỹ với vùng châu Á Thái Bình Dương tuy cũng tốt nhưng rõ
ràng là không mặn mà lắm. Chính phủ Philippines đóng cửa căn cứ hải
quân và không quân của Mỹ trên đất nước họ. Dân chúng Nhật Bản cũng đòi đóng
cửa các căn cứ của Mỹ tại Nhật. Bây giờ thì khác. Cả Nhật Bản lẫn Philippines đều
cố gắng mời mọc Mỹ trở lại. Hầu hết các quốc gia khác trong khu vực cũng có một
thái độ giống nhau: hoan nghênh quyết định quay lại với châu Á của Mỹ. Có thể
nói, chưa bao giờ các quốc gia châu Á, từ Nhật Bản đến Nam Triều Tiên, từ
Philippines đến Miến Điện, từ Malaysia đến Thái Lan lại cần Mỹ đến như vậy.
Lý
do thứ tư để cám ơn Trung Cộng là, sau sự gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam ,
Mỹ càng có quyết tâm quay lại với châu Á Thái Bình Dương hơn. Trong một bài báo
viết vào giữa năm 2012, Thượng nghị sĩ John McCain nêu lên hai tâm điểm chính
phủ Mỹ cần chú ý một cách đặc biệt: Biển Đông và Miến Điện.
Tình
hình Miến Điện đến nay diễn tiến tương đối tốt. Mặc dù có một số mâu thuẫn về
sắc tộc và tôn giáo thỉnh thoảng bùng nổ thành bạo động nhưng xu hướng dân chủ
hoá tại đất nước ấy có vẻ thuận lợi. Chỉ còn Biển Đông, một tuyến đường hàng
hải quan trọng của Mỹ, nơi mỗi năm, Mỹ chuyên chở một lượng hàng hoá lên đến
1.2 ngàn tỉ (1.2 trillion). Việc bảo vệ Biển Đông, do đó, là một trong những
nhiệm vụ chiến lược của Mỹ.
Nhưng
để bảo vệ Biển Đông, Mỹ cần sự hợp tác của nhiều quốc gia trong khu vực, từ
Philippines đến Brunei, Indonesia, Malaysia và Việt Nam, trong đó, quan trọng
nhất là Việt Nam, nước có vùng biển và đảo bị tranh chấp lớn nhất. Nếu Việt Nam
thần phục Trung Cộng và chấp nhận con đường lưỡi bò của Trung Cộng thì Trung
Cộng đã thành công gần một nửa.
Chính
ở điểm này quyền lợi của Việt Nam
và Mỹ gặp nhau. Nói cách khác, Mỹ không cần gì ở Việt Nam ngoài mục tiêu chung là ngăn
chận sự bành trướng của Trung Cộng trên Biển Đông. Trong khi đó, Việt Nam cần Mỹ trên
rất nhiều phương diện, từ kinh tế đến quốc phòng; về quốc phòng, nổi bật nhất
là cuộc tranh chấp trên Biển Đông. Nhu cầu hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam trở thành bức thiết nhất là sau vụ Trung
Cộng mang giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam . Không phải ngẫu nhiên mà sau
biến cố ấy, các cuộc thăm viếng giữa hai bên tăng lên dồn dập. Đó là lý do cuối
cùng khiến chúng ta nên cám ơn Trung Cộng.
Tuy
nhiên, Việt Nam
có nắm bắt được cơ hội tăng cường hợp tác với Mỹ hay không là một vấn đề khác.
Hai nguyên tắc quan trọng nhất trong chính sách ngoại giao của Mỹ dưới thời
Tổng thống Barack Obama là, một, họ không chiến đấu giùm cho ai cả mà chỉ giúp
những quốc gia có quyết tâm chiến đấu để tự bảo vệ mình; và hai, họ chỉ giúp
đỡ những nơi chia sẻ với họ một số điểm trong bảng giá trị chung: dân chủ và
nhân quyền. Điểm thứ hai rất quan trọng đối với trường hợp của Việt Nam với lý do
là, đến nay, còn rất nhiều công dân Mỹ vẫn mang vết thương thời chiến tranh
trước năm 1975. Chính phủ Mỹ chỉ có thể hợp tác sâu đậm với Việt Nam nếu họ thuyết phục được dân chúng Mỹ là Việt
Nam
xứng đáng nhận được sự giúp đỡ của Mỹ.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.