"Cộng đồng của chúng tôi không lớn, nhưng như mọi người, chúng tôi đã có thể làm và đạt được nhiều thành tựu," Billy Arnaquq nói.
Xứ sở băng giá hoang vắng
Trước khi chuyển đến Qikiqtarjuaq cùng gia đình vào năm 1980, Mary Killiktee chưa từng thấy nhiều băng tuyết đến vậy trong đời. Giờ đây, bà là nữ thị trưởng đầu tiên tại vùng đất bé xíu ở Nunavut này tại Canada, và bà vẫn chưa hết choáng ngợp vì vẻ đẹp hình học của cảnh quanh tại đây. "Hình dạng chúng cấu thành cực kỳ tuyệt vời," bà mô tả về những khối băng. "Chúng ở đây quanh năm, xung quanh, để chúng tôi ngắm nhìn. Đó là một phần của chúng tôi."
Có gần 500 cư dân sinh sống ở Qikiqtarjuaq, và theo bà Killiktee, tất cả mọi người đều quen biết nhau. Ở khu làng nằm trên hòn đảo nhỏ cùng tên Qikiqtarjuaq (tên này có nghĩa là "đảo lớn") ngay trên Vòng Cực Bắc. Đây là một trong những cộng đồng Nunavut gần Greenland nhất, tại khu vực cửa vào Vườn Quốc gia Auyuittuq.
Băng đá dừng lại tại đây khi trôi từ Eo biển Davis xuống miền nam vì bị cản lại bởi vịnh và vùng nước nông. Chúng kiến tạo nên cảnh quan và văn hóa cộng đồng nơi đây, vốn vẫn còn bảo tồn được truyền thống và ngôn ngữ riêng, đồng thời có nguồn nước trong lành nhất thế giới.
Những người mê cắm trại
Khi trường học đóng cửa, hầu hết gia đình rời Qikiqtarjuaq để đến những nhà nghỉ của mình (hoặc lều), nơi họ có thể đi bằng xe trượt tuyết đến trong khoảng hai đến ba giờ từ làng. Khi mùa hè đến, băng đá mỏng và không an toàn để đi xe trượt, các gia đình đi bằng thuyền.
Cắm trại là phần cốt lõi trong đời sống ở Qikiqtarjuaq. Thậm chí còn có một từ đặc biệt dành cho việc sống ngoài trời từ mùa xuân đến mùa hè: "upirngik". "Tôi thường làm vậy với mẹ và anh em," một người dân địa phương tên Daisy Arnaquq kể lại. "Đó là cách tôi hiểu về vùng đất này."
Daisy và chồng bà tên Billy có một căn lều ở Kangiqtukulu, tên này có nghĩa là "cửa vào nhỏ xinh". Căn lều do cha Daisy xây dựng, và cặp đôi thường ở đây với cháu họ, săn bắn và đánh cá. Họ cũng cho những du khách leo núi và phiêu lưu ở nhờ khi những người này đến công viên quốc gia gần đó.
"Cách người Inuit sinh sống đã thay đổi rất nhiều… chúng tôi đã chuyển từ lều igloo [lều kiểu Eskimo] sang dùng lò vi sóng gần 60 năm qua," Peter Irniq nói.
Những cư dân đầy tình yêu thương và cảm thông
Người Inuit ở khắp nơi trên thế giới, từ Greenland, Alaska, Canada và Nga - họ đã sống sót qua hàng ngàn mùa đông bắt cực tàn bạo và đen tối nhất. Nhưng họ đã làm được điều đó như thế nào? Irniq, người lớn lên từ chiếc lều igloo trong 11 năm đầu đời, cho rằng ông có câu trả lời:
"Naglingniq: tôi luôn nói rằng trong khóa học với sự nghiệp giảng dạy của tôi cho cả người Inuit và người không phải dân Inuit rằng cha ông ta đã có rất nhiều "naglingniq", rất nhiều tình yêu và cảm thông để có thể sinh tồn cho đến ngày nay," ông nói. "Chúng tôi chia sẻ những gì mình có với những người Inuit khác. Đó là cách tổ tiên của chúng tôi sống sót hàng trăm ngàn năm trước. Vì thế trong văn hóa Inuit của mình, chúng tôi nói rằng luôn giúp đỡ người khác để sống còn cho tương lai của chính mình."
Trong khi từ "naglingniq" là một từ Inuit chỉ tình yêu, sự thương quý và tôn trọng giữa các gia đình Inuit và đồng bào người Inuit, người Inuit cũng dùng từ này để chỉ sự cảm thông với những người khác trên thế giới. "Chẳng hạn như khi chứng kiến những thảm họa như vụ 11/9, chúng tôi luôn nói 'naqlingniiq cho New York'," Irniq cho biết.
Vùng đất của nụ cười
Ở Qikiqtarjuaq, hầu hết mọi người đầu nói tiếng Inuktitut; tiếng Anh không được sử dụng nhiều như trong các cộng đồng lớn hơn ở Nunavut.
Tuy nhiên Inuktitut không thuần túy là một ngôn ngữ. Với 26 ngôn ngữ địa phương chỉ riêng trong vùng Nunavut, tiếng Inuit là một hệ thống đa dạng của các thể thức ngôn ngữ khác biệt tùy theo những cộng đồng khác nhau.
Những tiếng địa phương khác nhau này phát triển vì người Inuit sống trong những trại nhỏ bị cô lập cho mãi đến tận 50 năm trước đây. Tuy nhiên, gần đây ngôn ngữ Inuit bắt đầu pha trộn vào một ngôn ngữ địa phương vì sự thành lập các cộng đồng Inuit lớn và ổn định hơn.
Những từ ngữ không thể phiên dịch
Rất nhiều từ vựng trong tiếng Inuktitut không thể phiên dịch trực tiếp ra tiếng Anh, vì chúng đề cập đến những khía cạnh độc đáo trong đời sống của người Inuit. Chẳng hạn, không có từ nào có nghĩa là "xin chào". Thay vì vậy, người Inuit chào nhau bằng một nụ cười. Qungap pagit, một cụm từ tiến hóa từ tiếng chào chung của người Inuit, có nghĩa là "tôi mỉm cười với bạn".
"Qungap pagit là cách chúng tôi luôn chào nhau, và đó là lý do chúng tôi mỉm cười để chào nhau. Điều này cho biết rất nhiều về cách mọi người kết bạn với bạn và muốn gặp bạn. Người Inuit là những người cực kỳ thân thiện," Irniq nói.
Tương tự, ở Qikiqtarjuaq, mọi người không nói "không", mà họ dùng đến mũi. "Tôi chỉ dùng gương mặt của mình," Killiktee giải thích. "Đó là dấu hiệu cho biết 'tôi không hiểu' hoặc 'không, tôi không thể'. Chúng tôi sử dụng cách này rất nhiều."
Ngôn ngữ, cùng với những tảng băng, đã định hình tính cách của vùng đất này, mà cư dân thường gọi yêu là "Qik".
"Đó là loại nước tốt nhất trong tất cả các loại nước… nước tan từ băng, Allen Kooneeliusie, một dân địa phương lâu đời chuyển đến Qikiqtarjuaq sống khi cư dân vẫn còn sống trong các nhà qammaq, tức là các căn nhà làm bằng đá.
Bông tuyết hàng ngàn năm tuổi
Những tảng băng trôi quanh Nunavut đã được tạo thành từ hàng ngàn năm trước. Khi bông tuyết rơi xuống, các lớp tuyết bên dưới lại được nén xuống qua thời gian, chuyển từ kết cấu mềm sang những tấm băng như pha lê.
Từ các tấm băng này hình thành các sông băng - khi các tảng băng vỡ ra và trôi đi. Do những dòng hải lưu mạnh, rất nhiều tảng băng từ các phần khác của Bắc Cực trôi đến Nunavut, khiến nơi này trở thành thủ phủ băng của thế giới.
"Băng đá và không khí, đó là những thứ chính cần thiết. Và nước thoát ra từ đây rất trong lành, bắt đầu từ hàng ngàn năm trước, và có rất ít loại vi khuẩn sống trong băng," Derek Mueller, nhà nghiên cứu về sông băng tại trường Đại học Carleton của Canada nói.
Nước từ các tảng băng trôi thiếu một số khoáng chất mà các tầng ngậm nước và nước ngầm có được khi chảy qua lòng đất, khiến nước này cực kỳ tinh khiết. Người dân ở Qikiqtarjuaq lấy nước trực tiếp từ băng đá.
"Chỉ là cách chúng tôi làm ra nó. Đó là một phần của văn hóa," Killiktee nói. "Đó là nơi các gia đình sống quanh các tảng băng trôi đến lấy nước. Chúng tôi phải tôn trọng nơi đó và đến giờ vẫn vậy. Đập vỡ băng, lấy đá từ đó, uống nó, làm nó tan chảy. Chính vậy!"
Bảo tồn lối sống Inuit
Với quá trình hiện đại hóa, rất nhiều người già ở Inuit lo lắng cách sống truyền thống của họ sẽ mất đi. Kết quả là một số người Inuit đã bắt đầu cố gắng bảo tồn ngôn ngữ Inuktitut và Qaujimajatuqangit, kiến thức truyền thống Inuit.
"Khi chúng tôi đi học ở các trường địa phương trong thập niên 1950 và 1960, chúng tôi không được phép nói [tiếng Inuktituk]. Thầy giáo và hệ thống và chính phủ Canada luôn bảo chúng tôi phải học nói và viết tiếng Anh," Irniq nói. "Nhưng chúng tôi vẫn nói tiếng Inuktitut với nhau để giữ cho ngôn ngữ tồn tại, và rất nhiều người trẻ của chúng tôi giờ vẫn nói tiếng Inuktitut."
Arnaquq và những nhà hoạt động văn hóa Inuit đưa vào các chương trình giảng dạy cho thế hệ trẻ cách sống "trên mặt đất" như tổ tiên họ từng sống. Trong các khóa học này, người trẻ Inuit học về các kỹ năng sống sót cổ truyền, như cách dựng một ngôi nhà băng Igloo, cách sống sót trong mùa đông Bắc Cực khắc nghiệt có thể lạnh tới -60 độ C và cách lột da và giéte mổ một con tuần lộc Bắc Mỹ để lấy thịt.
"Ngôn ngữ truyền thống của chúng tôi rất mạnh ở đây, từ già đến trẻ. Sức mạnh của kiến thức cổ truyền là nguyên do tuyệt vời để yêu cộng đồng mình," Killiktee nói.
"Ngôn ngữ truyền thống của chúng tôi rất mạnh ở đây, từ già đến trẻ. Sức mạnh của kiến thức cổ truyền là nguyên do tuyệt vời để yêu cộng đồng mình," Killiktee nói.
Qajaaq Ellsworth & Anna Bressanin
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.