Nhắc tới Lam Phương,
ký ức tôi lại bồi hồi nhớ đến một nụ cười đôn hậu trên khuôn mặt thật
dễ mến của người nhạc sĩ lão thành. Tôi đã có duyên gặp ông vài lần. Lần đầu tại
nhà riêng ông nhân dịp Câu Lạc Bộ Tình Nghệ sĩ tổ chức một buổi tiệc mừng cho
ông. Hình ảnh Lam Phương, người nhạc sĩ lừng lẫy một thời, ngồi bên cạnh cây
đàn đã theo mình bao năm qua, khiến tôi xúc động. Ông trìu mến nhìn cây guitar
của mình và tâm sự “Bây giờ đôi tay chú không còn chơi đàn được nữa...”.
Sau những năm dài chưa hoàn toàn bình phục vì cơn tai biến mạch máu não, chắc
cũng có lúc ông nhìn đôi tay, đôi chân mình một cách bất lực, như người thuyền
trưởng gắng sức điều khiển con tàu ra khỏi trung tâm cơn bão mà con tàu cứ tiếp
tục lao mình vào lốc xoáy.
Giọng ông đang buồn bã
bỗng đổi thành tươi vui khi tôi hỏi han đến những tập nhạc của ông để trên bàn.
Không có gì hạnh phúc bằng bàn luận về những đứa con tinh thần của mình “Chú có
hơn hai trăm ca khúc..”. Ông ngập ngừng diễn tả một cách khó khăn vì đường
lưỡi chưa chịu nghe lời mà uốn lượn. Tuy nhiên, lúc nhắc đến các ca khúc, tôi
thấy dường như có những vì sao lấp lánh trong mắt ông. Đôi mắt ấy, có từng là
chứng nhân của các cuộc chia ly lịch sử? Tôi tự hỏi người nhạc sĩ ấy đã viết
bao ca khúc, có ca khúc nào không phải là những tự truyện cực ngắn đời mình? Con
ong đã ngừng bay, bỏ chốn cũ thường đi về, lấy mật ngày xưa. Con tằm thôi nhả
đường tơ bóng láng, dịu dàng. Tuy nhiên tổ ong đã ngọt ngào đủ mật, rổ tơ đã
óng ánh những lọn tơ đầy. Lam Phương đã dừng lại trên luống cày đời mình, những
hạt thóc ông gieo xuống đã thành lúa, thành gạo từ lâu. Chúng là một trong những
thứ thực phẩm đã nuôi dưỡng, làm đầy cơn đói tinh thần con người.
Những năm trước 1975,
người dân miền nam Việt Nam, hầu như ai cũng đã từng nghe và biết tiếng nhạc sĩ
Lam Phương. Ông viết nhạc từ rất sớm, năm 15 tuổi đã khởi đầu, nên sự nghiệp âm
nhạc ông để lại khá nhiều. Trên 200 tác phẩm đa dạng, đủ thể loại, đủ sắc
thái. Dường như ông có cảm hứng với tất cả những gì xảy ra quanh mình. Từ
cuộc sống dân dã của thôn quê cho tới binh nghiệp của người lính chiến. Từ phút
thăng trầm cơ cực của kiếp nghèo cho đến những giây hoan ca, hạnh phúc của tình
yêu đôi lứa. Tiếng khóc của trẻ thơ, lời ru đại dương vỗ về tình mẹ, cho đến giọt
nước mắt lấm tấm bịn rịn hay đầm đìa chất ngất thương đau, trong kết thúc một
chuyện tình. Tất cả đều được các nốt nhạc mẫn cảm của ông ghi lại.
Tuy nhiên theo tôi, so
với dân ca, ông viết tình ca nhiều và thành công hơn. Có một ai đó nói, dân tộc
Việt nam là một dân tộc lãng mạn. Cứ đọc ca dao, nghe dân ca, hò lơ, hò huế, ru
con, chèo cổ hay sáu câu vọng cổ, để hiểu tại sao chúng ta không có anh hùng ca
mà chỉ có tình ca. Lam Phương không ngoại lệ khi phần lớn ca khúc của ông là những
bản tình ca.
Đất nước chúng ta liên
tiếp bị chiến tranh tàn phá, hết ngoại xâm rồi nội chiến, tâm thần con người bị
tổn thương đến nỗi cái lãng mạn, vui tươi, hạnh phúc đã tự nhiên biến dạng
thành suối nguồn của niềm đau, nỗi buồn. Người dân miền Nam trước 75 lại bị đưa
vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn bất đắc dĩ nên khi trải lòng. phơi mở những
tâm sự, nội dung lãng đãng những biệt ly, nuối tiếc, nhớ nhung.
Lam Phương cũng vậy.
Là người miền Nam, vốn có chút duyên với câu hò, vọng cổ, nên điệu buồn nhạc ông
lên men sầu da diết hơn là hơi hướm của các tiết điệu vui tươi, nhộn nhịp. Ông
đã chinh phục được một số rất đông người mến mộ. Nhạc ông dễ nghe, dễ hát. Ca từ
giản dị, không kiểu cách, dễ hiểu, chân phương, có nhiều khi mộc mạc. Người
nghe và hát, cảm được tiếng lòng của họ thổn thức, nhất là khi họ bị rơi vào hoàn
cảnh trùng hợp với bài hát, thế là trái tim của họ lập tức bị đốn ngã. Hầu
hết các ca từ, chữ dùng, chuyện kể, trong hơn 200 bản nhạc của ông phần lớn đều
diễn đạt những cách ngăn, hoài niệm tiếc nuối kỷ niệm xưa của tình yêu đôi lứa,
những buổi từ ly, sân ga, bến đò, vẫy biệt, khăn tay và nước mắt. Dường như sự
chia cách đã thấm vào máu ông, lập đi lập lại trong tiềm thức như những nốt lặng,
dừng lại, trùng điệp, rồi ngân vang, rất xa cho tới cuối cuộc đời, để tất cả chỉ
còn là một khoảng trống tận cùng.
Rất nhiều bài hát mang
cùng chủ đề tôi không tiện kể ra hết nhưng chúng ta có thể tìm thấy trên mạng
như: Duyên Kiếp, Thu sầu, Phút cuối, Nghẹn ngào, Chờ người ..v v…
Nhạc phẩm đầu tay của
ông “Chiều thu ấy” đã mang mầm mống của ly tan. Nhưng bài hát chia ly đã
làm vang danh ông từ ngày còn trẻ chính là bài “Chuyến đò vĩ tuyến”, vì nó mang
một dấu ấn lịch sử của cuộc chia cắt đất nước Việt Nam vào năm 1954. Theo lời
Cao Đắc Tuấn thì ": "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" là một bài hát do nhạc sĩ Lam Phương
viết vào năm 1955 sau khi hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954
tại vĩ tuyến 17 bên sông Bến Hải. Bài hát là lời một cô gái đang
mong chờ người yêu trên con đò bên bờ sông để đưa chàng qua vĩ tuyến
về miền Nam thanh bình trù phú. Qua lời cô gái, tác giả biểu lộ bản
chất nhân bản, hiền hòa, yêu thương đồng bào và đất nước của người
miền Nam". Trong Wikipidia thì ghi 1957.
Đêm nay trăng sáng
quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng
……………………………………………………
Hình ảnh người con gái
chờ đợi người yêu trên con đò để đưa chàng vượt tuyến trong một đêm trăng sáng
là một bức hoạ có sắc sống, lung linh và lãng mạn. Nhưng chàng trai vì một lý
do nào đó không bao giờ có cơ hội đến nơi hẹn đã làm vỡ tan giấc mơ sum họp của
cô gái, của một mái ấm hạnh phúc trong tự do ở miền Nam cá đầy, gạo trắng.
Dòng sông Bến Hải, cây
cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17, là điểm mốc lịch sử cuộc di cư vĩ đại của gần một
triệu người dân miền Bắc đã rời quê cha đất tổ vào miền Nam. Bối cảnh lịch sử này
là một dĩ vãng không bao giờ quên của những người di cư, bảo sao bài hát không
chiếm được cảm tình của nhiều người Bắc thời bấy giờ. Cây đa, bến cũ, con đò, ánh
trăng, năm xưa, luôn là biểu tượng gợi nhớ da diết, đưa trí tưởng người ta làm
những cuộc viễn du, hành hương về miền đất cũ. Năm 1957, Lam Phương đã sáng tác
vài bài hát cùng một chủ đề như thế “Chuyến tàu thống nhất”, “Đoàn người lữ thứ”,
“Sầu ly hương”..v..v. Dù ông không là kẻ ly hương nhưng là chứng nhân, có lẽ biến
cố này để lại trong hồn ông những xúc cảm chân thành nên các sáng tác thể loại
này mới ra đời. Riêng bài “Sầu ly hương” đã dẫn dắt bước chân thời gian trở lại
hiên nhà quá khứ của tấm lòng những người du mục tha hương, trong đó có tôi.
Nhạc sầu buông trầm
lắng
Xa quê bao ngày tháng
Mang theo nỗi niềm đau xót chia phôi
Hà Nội xa vời lắm
nơi quê hương chìm đắm
Ai ra đi mà không thương nhớ về
……………………………………
Xa quê bao ngày tháng
Mang theo nỗi niềm đau xót chia phôi
Hà Nội xa vời lắm
nơi quê hương chìm đắm
Ai ra đi mà không thương nhớ về
……………………………………
Vì đâu ta điêu linh
sống trong đêm mong manh
Nhớ nhung ôi đêm thâu buồn tàn canh
sống trong đêm mong manh
Nhớ nhung ôi đêm thâu buồn tàn canh
……………………………………………………
Hà Nội đang hờn oán
Non sông đang lầm than
Đi ta nối bao tình Nam Bắc yêu thương
Hà Nội ơi buồn nhớ
đêm nay ta sầu mơ
Gởi lòng theo ngàn cánh chim xa mờ
Hà Nội đang hờn oán
Non sông đang lầm than
Đi ta nối bao tình Nam Bắc yêu thương
Hà Nội ơi buồn nhớ
đêm nay ta sầu mơ
Gởi lòng theo ngàn cánh chim xa mờ
Sầu ly hương-Lệ Thu
Đây là lần đầu tiên
tôi nghe cô Lệ Thu hát bài này của Lam Phương được thu âm trước 1975. Phải nói
là cô hát bài này rất hay với một chất giọng nguyên thủy ngày còn trẻ khi chưa
bị hư giọng. Bài Sầu Ly Hương có cấu trúc A-B-A vô cùng cân phương và tối giản,
vì mỗi đoạn chỉ có hai câu với nhạc tố(motif) tiết tấu nhịp nhàng từ đầu đến cuối
bài, là 5-5-8, tạo sự quen thuộc và dễ thuộc, như một bài dân ca vùng Almeria
hay Seville nước Tây Ban Nha, nhạc sĩ Lam Phương đã sử dụng rất nhiều chuỗi(sequences)
là một đặc điểm của nhạc tây phương luôn có kết cấu hoà âm chặt chẽ với giai điệu.
Do đó ca từ và tiến trình giai điệu đã chuyên chở đủ được sự não nề, đau đớn,
buồn bã của tâm thức người ly hương, sau chiến tranh.
Nhắc tới Lam Phương
người ta liên tưởng ngay đến Túy Hồng và ban kịch Sống của cô. Lam Phương là
người viết rất nhiều ca khúc(khoảng 10 ca khúc) cho các vở kịch của Túy Hồng. Tôi
còn nhớ ngày tôi còn bé trước năm 75, rất thích coi kịch. Ngoài ban kịch Kim Cương,
ban kịch Sống là một trong hai ban kịch lấy rất nhiều nước mắt của khán giả. Tôi
ở trong một xóm nghèo, nhà không có TV, mỗi tối sau khi ăn cơm, làm bài tập
xong, thường đi coi ké TV nhà hàng xóm. Trước năm 75, TV bên Việt Nam còn dùng
trắng đen, kịch Sống thường diễn trên đài truyền hình VN số 9. Túy Hồng và Vân
Hùng là nam diễn viên kịch nói đã làm say mê bao nhiêu khán giả trong đó có khán
giả tí hon là tôi. Nhạc phẩm "Trăm Nhớ Ngàn Thương" trong một vở kịch
của Túy Hồng đã làm thổn thức trái tim nhiều người khi xem kịch.
Mất em rồi, xa em rồi
Hoa đã tàn, nhụy đã phai
Chiều hôm nay trời thanh vắng em đi về, về với ai
Một người đi, một người sầu
Nhìn hoa úa buồn về mau
Đôi chân mòn tìm dư âm hè phố vắng
Lòng còn thương, tình còn nồng
Mà đêm nhớ, ngày chờ mong
Bao thu rồi nhìn lá chết rơi ngoài song
Hoa đã tàn, nhụy đã phai
Chiều hôm nay trời thanh vắng em đi về, về với ai
Một người đi, một người sầu
Nhìn hoa úa buồn về mau
Đôi chân mòn tìm dư âm hè phố vắng
Lòng còn thương, tình còn nồng
Mà đêm nhớ, ngày chờ mong
Bao thu rồi nhìn lá chết rơi ngoài song
.....................................................
Trăm nhớ ngàn
thương-Khánh Ly
Bài này cô Khánh Ly hát
rất chân phương, kỹ thuật hoà âm đơn giản nhưng đủ chuyên chở được những ca từ
mong nhớ, thương yêu, đậm sâu của nhân vật trong bài hát.
Trong kỹ thuật sáng tác,
tôi thấy Lam Phương đã sử dụng nhiều nhạc country của Mỹ như nhạc blues, blues
rock, như trong âm hưởng của bài này. Vào giữa thập niên 60, 70 nhạc blues
rock(kết hợp giữa blues và rock) và các blues rock club Mỹ xuất hiện rất nhiều.
Các nhạc sĩ Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng. Không riêng bài “Trăm nhớ ngàn thương”,
nét nhạc này người ta tìm thấy rất nhiều trong dòng nhạc trữ tình được nhiều người
nghe và yêu thích vào thập niên nói trên. Sau khi chế độ cộng hoà ở miền Nam sụp
đổ tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đặt tên cho dòng nhạc trữ tình miền
Nam là “nhạc vàng” và cấm hát, phổ biến, cũng như lưu hành. Thế mà “nhạc vàng”
lại được người dân miền Bắc ưa chuộng vì nó chứa nhiều yếu tố cảm tính mà nhạc
miền Bắc rất thiếu. Bây giờ rất nhiều bài
hát trong kho “nhạc vàng” được cho phép hát, lưu hành và các ca sĩ rất thích hát.
Trong tiến trình sáng
tác của ông, Lam Phương viết nhạc qua thời đại, cho mọi giới, mọi tầng lớp nhưng
có lẽ tầng lớp bình dân là mục tiêu được ông chọn để tiếp cận vì đó là đáy của
một kim tự tháp trong phương pháp tiếp thị. Phải nói rằng nhạc của ông thoả mãn
thị hiếu người nghe và bán rất chạy. Khi ấy, vấn đề thương mại và nghệ thuật được
đặt ra và có người chỉ trích nhạc của Lam Phương là nhạc thương mại, nhạc sến.
Đã có nhiều người thắc
mắc và cũng có người cố gắng định nghĩa và phân tích từ “sến là gì” và thế nào
là “nhạc sến”? Đây là một đề tài gây nhiều tranh cãi. Theo tôi, “sến” là một từ
ngữ được áp đặt, được sử dụng rộng rãi nhưng không có nguồn gốc, định nghĩa rõ
rệt. Mỗi người hiểu “sến” theo một ý riêng và không có một tiêu chuẩn nhất định
nào để phân loại nó. Người ta chỉ nghe người khác phê bình và bắt chước hùa
theo để gọi một bài hát là “sến”, rồi tự mình phân loại một dòng nhạc là “sang”
hay “sến”.
Có vài định nghĩa cho rằng
“Sến” tượng trưng của những gì rẻ tiền, từ ngữ đến từ Mari sến hay con sen. "Sến"
còn là một từ ám chỉ sự chê bai và miệt thị những gì thể hiện ở mức, hay dưới mức
trung bình hoặc bình dân.
Nét “sến” trong âm nhạc,
có người bảo nó xuất phát từ chữ “sentimental” nghĩa là ướt át, đa sầu, đa cảm.
Ta có thể gọi yếu tố chính của “sến” là ngọt ngào, mùi mẫn, sướt mướt, dễ thấm,
xuyên tim. Chữ "sến" ở đây có nghĩa là khi nghe người ta thấy “phê”,
thấy tim bị đốn ngã.
Có người quy cho dòng
nhạc hay các bài hát có thể điệu bolero là nhạc “sến”, điều này không đúng. Giai
điệu, không làm cho một bài hát trở thành “sến”. Thể điệu bolero đơn điệu và sáo
mòn dễ hát nên có một số ca sĩ thích hát bolero bị gán cho từ “sến” . Hoặc ngược
lại, những bài hát được họ trình bày đều biến thành “nhạc sến”.
Vì người ta hiểu bình
dân là “sến” mà nhạc Lam Phương được giới bình dân ưa chuộng nên hễ nói tới “nhạc
sến”, người ta hay nhắc đến tên Lam Phương và đem các bài hát như “Duyên Kiếp”, hay “Thành phố
buồn” ra làm ví dụ. Thực ra nhạc Lam Phương không quá bình dân đến nỗi bị quy là
rẻ tiền, hoặc dành cho các cô bà gánh nước hay con sen gối đầu giường. Nhạc của
ông cũng không quá hàn lâm như kiểu nhạc của Cung Tiến có nhiều ảnh hưởng của nhạc
cổ điển Tây Phương. Biên giới giữa nhạc “sến” và “không sến” trong các nhạc phẩm
của ông cũng mơ hồ.
Nếu bảo rằng nhạc Lam
Phương "sến" vì ca từ của ông lãng mạn, mộc mạc, giản dị, chân phương,
tôi càng không đồng ý. Trong những nhạc phẩm trữ tình của ông sáng tác vào thập
niên 60, 70 có nhiều ca từ còn hay ho hơn vô số các bài nhạc bây giờ. Nhạc bây
giờ trong nước, có bài bắt chước nhạc Hàn quốc chỉ ra vẻ văn minh thôi chứ lời
thì rất ngô nghê, sự thể hiện lại rỗng. Xem ra nếu so sánh chúng với dòng nhạc
ngày xưa bị cho là "nhạc sến", nó lại có ca từ văn vẻ hơn, mà không
thô lỗ, như nhạc thương mại ngày nay.
Do đó khi một bài hát
bị người ta cho nó là "sến" phần lớn do người ca sĩ thể hiện nó quá đà
khiến nó trở nên quá ủy mị, rên rỉ, nỉ non, mùi mẫn cốt để lấy nước mắt, hay đốn
ngã tim người nghe.
Ngày mới lớn, đi đâu,
tôi cũng nghe thiên hạ hát “Thành phố buồn”(1970). Ngoài vỉa hè đại lộ, trong
ngõ hẻm, đài phát thanh, truyền hình, đâu cũng có tiếng hát bài ấy vang vọng. Không biết cái thành phố buồn ấy nó hoang vắng,
lạnh lẽo thế nào mà khi tiết tấu vừa trỗi lên, rót vào tai tôi, nỗi buồn liền
đáp xuống, quất sụm cái trí tích cực con người liền. Nhất là khi nghe các nam
ca sĩ thường hát nhạc sến, cất giọng nhừa nhựa, ngân nga, con sâu buồn liền
ngóc đầu uốn éo, cào nhẹ trái tim người nghe, khiến tứ chi đột nhiên rũ rượi. Phải
chăng cái chất giọng, lối thể hiện quá đà của người ca sĩ đã khiến bài hát tự
nhiên “sến”. Mà cũng lạ, sau 75 và hiện nay một số ca sĩ xuất thân từ miền Bắc(thường
hát nhạc hàn lâm hay “nhạc sang”) hát nhạc Lam Phương theo phong cách mới ai cũng
công nhận là họ hát nhạc Lam Phương không thấy “sến” mà lại rất hay. Điều này
khiến ta thấy rõ hơn sự thể hiện một bài hát của người ca sĩ rất quan trọng, nó
có thể đưa bài hát của một nhạc sĩ vang danh hay biến nó thành “sến” chỉ trong
mấy phút phù du.
Có một nghịch lý là,
không phải một ca sĩ hay hát nhạc sến mà bài hát biến thành sến. Một bài hát trở
nên sến, không do dòng nhạc đó sến mà khi người ca sĩ trình diễn một bài hát bị
hư. Có bài hát được cho là sến, 1 người ca sĩ muốn hát cho nó khỏi sến, liền cố
gắng đổi phong cách, khi hát cố thoát ra khỏi cái rên rỉ, ngọt, mùi, nhưng vì chú
ý quá nhiều đến kỹ thuật, nên thiếu chiều sâu, cảm xúc, lại cố gồng lên, màu mè,
luyến láy một cách máy móc, sáo mòn, khiến bài hát biến thành vô hồn thì tôi lại
cho rằng người ca sĩ đó hát rất "sến".
Nói tóm lại, âm nhạc
chuyên chở cảm xúc, người nhạc sĩ là người làm nên những chiếc thuyền với những
kỹ thuật kết nối, diễn đạt, ràng buộc, ôm ấp cảm xúc. Người ca sĩ là người lái đò
đưa chiếc thuyền cảm xúc về bến đậu. Chiếc thuyền có về bến an toàn hay lạc lối
đều do tài điều khiển con thuyền nếu bị sa vào cơn bão táp.
Rev. Hugh Reginald
Haweis có nói “Cảm tính, chứ không phải
lý tính, đã làm cho âm nhạc thăng hoa”. Dòng nhạc Lam Phương với bao nhiêu là cảm
xúc tràn bờ đã tạo cho ông một nét riêng trong những con thuyền ông thả xuống dòng
sông âm nhạc Việt Nam. Cảm ơn ông đã vì âm nhạc mà tạo nên những con thuyền trôi
lờ lững làm đẹp và giàu có thêm cho kho tàng âm nhạc Việt Nam.
(Trích Việt Tide-Thế
Giới Nghệ Sĩ số 44)
Nhà văn Trịnh Thanh
Thủy chụp chung với Nhạc sĩ Lam Phương
Trịnh Thanh Thủy
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.