Thời
1954-75, các nhà thơ ở miền Nam, với những mức độ khác nhau, đều hoài nghi, hơn
nữa, phủ nhận toàn bộ những nền tảng ý thức hệ và thẩm mỹ trên đó Thơ
Mới thời 1932-45 được xây dựng.
Trước
hết là hình ảnh nhà thơ như một cái tôi cá thể.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, khí quyển văn hoá của thơ miền Nam vẫn là bầu khí quyển của chủ
nghĩa cá nhân. Có điều, nếu chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn 1932-45 là một
thứ chủ nghĩa cá nhân đầy tự tin và tự hào một cách ngây thơ thì chủ nghĩa cá
nhân trong giai đoạn 1954-75, sau những năm kháng chiến hào hùng, khốc liệt,
đầy ngang trái và đầy cay đắng, trở thành “phải chăng” hơn: cái “tôi” cá thể
được hiểu như một cái riêng chứ không phải là một cái khác, càng không phải là
một cái gì lớn lao, tuyệt đối. Nhà thơ không còn là “con chim đến từ núi lạ” (Xuân
Diệu) mà chỉ là “một con chim bói cá / lặn tìm vuông đời mình” (Du Tử Lê),
không còn đi những bước đi đặc dị: “Chân mình vẫn lạc dấu nghìn chân” (Trần
Huyền Trân) mà chỉ muốn hoà hoãn với cuộc đời: “Tôi bây giờ sống thu thân /
Sống cam phận nhỏ chia phần an vui” (Nhã Ca); không còn khệnh khạng: “Tôi:
thù nhân của Số Nhiều” (Vũ Hoàng Chương) mà ý thức rất rõ trong cái riêng
của mình có cái chung của nhân loại: “Tôi là một người là một đám đông”(Tô Thuỳ
Yên).
Trước,
nhà thơ tự coi mình như một kẻ có phẩm chất đặc biệt và cao cả, khác hẳn phàm
trần, không thể có tri âm giữa trần, nên chỉ trò chuyện với vũ trụ, với trăng
sao. Nay, ngược lại, nói như Thanh Tâm Tuyền, “người làm thơ... chỉ là tên ăn
mày lẩn giữa đám đông khốn cùng với một mẩu tự do còn sót lại” (1) Chỗ đứng của
nhà thơ là ở “giữa lòng cuộc đời”, như nhan đề một tập thơ của Quách Thoại. Thơ
Thanh Tâm Tuyền: “Mỗi hoàng hôn tôi bước cùng đám đông / lòng khẩn cầu cách
mạng”; thơ Tô Thuỳ Yên: “Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan”.
Thấp
thoáng đâu đó, trong những câu thơ vừa dẫn, có chút ảnh hưởng của thơ thời
kháng chiến chống Pháp chăng? Có thể. Chỉ có điều khác là: các nhà thơ kháng
chiến, ngay cả trong những năm đầu, thường chỉ đứng trong đội ngũ. Còn các nhà
thơ sau này lại đứng giữa cuộc đời, cái cuộc đời được thu gọn lại vào một biểu
tượng: đám đông. Ở trong đội ngũ thì cần đồng phục. Ở giữa cuộc đời thì không.
Hơn
nữa, cái tôi cảm xúc cũng không còn giữ được vị thế uy nghi như trước. Trong
phong trào Thơ Mới, các nhà thơ coi sự đa cảm và nhạy cảm là đặc sản của những
thiên tài nên cố sức phô bày cảm xúc trong thơ. Ai cũng muốn khoe khoang, như
Tế Hanh: “Tôi là triệu phú rất nhiều yêu”, như Nguyễn Bính: “Tôi như một kẻ sa
lầy trong yêu”, như Xuân Diệu: “Tôi không biết, không biết gì nữa cả / Chỉ yêu
nhiều là tôi biết mà thôi”. Có điều, bị chi phối bởi quan điểm thẩm mỹ chỉ coi
là đẹp những gì nhẹ nhàng thơ mộng, cảm xúc của họ, do đó, cũng dừng lại ở mức
độ nhẹ nhàng và thơ mộng. Yêu, thường chỉ là yêu thầm. Nhớ, thường chỉ là nhớ
xa xôi. Buồn, thường chỉ là buồn vô cớ. Cái dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, cái
khắc khoải của Thâm Tâm, của Trần Huyền Trân, cái phẫn uất của Nguyễn Vỹ, cái
thống thiết của Chế Lan Viên, của Hàn Mặc Tử, một phần không nhiều so với toàn
cảnh Thơ Mới, phần khác, quan trọng hơn, tất cả đều bị dịu lại, đằm xuống vì
những điệu thơ có vần, có nhịp, mềm mại và ngân nga. Cảm xúc trong Thơ Mới, do
đó, dần dần bộc lộ nhiều khuyết điểm rõ rệt: trước hết là đơn điệu, sau nữa,
cùng với những cơn địa chấn dữ dội của đất nước, của lịch sử, trở thành giả
tạo. Tâm hồn con người không còn thanh bình và êm ả như xưa. Trên khắp đất nước
đang ầm ầm lửa đạn, trong khắp thành phố đang ầm ầm những tiếng động cơ: chiến
tranh và xu hướng đô thị hoá gấp gáp khiến cho tâm hồn con người cũng nổi gió,
nổi bão. Ý thức thẩm mỹ ở cả hai miền đều đổi khác. Nói như Bùi Giáng, “chúng
ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải.
Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia [tức Thơ Mới], chúng ta bỏ
trôi mất hút, không một chút bận tâm.” (2)
Gắn
liền với sự khắc khoải, cảm xúc thường bị đẩy đến mức cực đoan. Người ta không
còn thầm thì than thở nữa. Hoặc người ta chịu đựng hoặc người ta gào thét. Chịu
đựng thì như trường hợp của Quách Tấn: đối diện với sự bất hạnh, ông không
khóc, ông không nói; mọi cảm xúc đều bị ghìm nén lại; “nhất nhất cái gì cũng
quạnh quẽ, hiu hắt, tịch mịch” (3). Gào thét thì như trường hợp Thanh Tâm
Tuyền: “Tôi không ca ngợi tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu. Mỗi tiếng, mỗi lời
viết ra tôi đều thấy nó chứa đựng những hận thù, khinh bỉ, dày vò, đớn đau,
tuyệt vọng, nhơ nhuốc, dối trá, hằn học, trơ trẽn, bệnh hoạn, xấc láo, tàn bạo,
cục cằn, tủi hổ, yếu đuối, bất lực, chết chóc nghĩa là tất cả những thứ mà tình
yêu loại trừ.” (4)
Đằng
sau những lời lẽ ít nhiều có tính cường điệu ấy, có một sự thật mà Thanh Tâm
Tuyền đã nhạy bén phát hiện ra được: tâm hồn con người đã thay đổi hẳn.
Rải rác trong nhiều bài viết khác nhau, Võ Phiến đã phân tích những sự
thay đổi ấy. Ông gọi thế hệ 1954-75 ở miền Nam là “thế hệ sỗ sàng”: “sỗ sàng,
thẳng thừng, cynique, khinh mạn, phũ phàng v.v..., hàng loạt những tiếng như
thế thường được dùng để chỉ định thái độ của thế hệ này” (5). Bất cứ thái độ
nào được miêu tả ở trên cũng đều xuất phát từ ý thức hơn là từ cảm xúc.
Ở
miền Nam ,
trong bài “Nhân nghĩ về hội hoạ”, viết năm 1956, Thanh Tâm Tuyền lên tiếng
chống lại chủ nghĩa tình cảm trong văn học nghệ thuật:
“Tôi
cho không có cái định nghĩa văn chương nghệ thuật nào ấu trĩ hơn là cái định
nghĩa này: văn chương nghệ thuật là sự phô diễn những xúc động ở trong lòng của
con người. Định nghĩa ấy dẫn đến trong hội hoạ, hoạ phái trừu tượng vô hình
dung, trong văn chương, một thứ văn chương lải nhải tình cảm (sentimentalisme)
- dù là tình cảm lành mạnh đi lên và gì gì nữa - Nghệ thuật là hành động siêu
việt hoá con người trong chính đời sống thực của nhân loại. Những tác phẩm tầm
thường là những tác phẩm chịu trói trong những cái vụn vặt tủn mủn hời hợt của
đời sống.” (6)
Trước
đó một năm, năm 1955, trong bài “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, Thanh Tâm
Tuyền miêu tả chân dung nhà thơ mới: “hắn bước sâu vào ý thức thăm thẳm
muốn xô động tới những giới hạn siêu hình.” (7)
Có
thể nói: trung tâm của Thơ Mới là cái tôi cảm xúc; trung tâm của thơ sau
1954, đặc biệt ở miền Nam ,
là cái tôi ý thức. Nếu Thơ Mới được xây dựng trên sự dào dạt của cảm xúc thì
thơ sau 1954 được xây dựng trên sự khắc khoải, sự dằn vặt của ý thức. Các nhà
Thơ Mới đặt mình chủ yếu trong mối quan hệ với thiên nhiên, với gia đình, bạn
bè, người yêu để lắng nghe và ghi nhận những tiếng động khẽ khàng trong hồn
mình; các nhà thơ sau 1954 đặt mình chủ yếu trong mối quan hệ với lịch sử, với
thân phận con người nói chung để nhận diện những cơn lốc khốc liệt trong hồn
mình và trong đời mình. Các nhà Thơ Mới nỗ lực tạo dựng, bằng hoài niệm hoặc
bằng mơ ước, một thế giới khác lúc nào cũng bềnh bồng trong sương khói và
thoang thoảng chút hương hoa; các nhà thơ sau 1954 chỉ bận tâm với việc thám
hiểm vào chính cái cuộc đời họ đang sống, cái núi lửa đang thiêu đốt họ.
Các
nhà Thơ Mới chấp nhận cuộc đời bằng thái độ ung dung tự tại và phần nào thoả
mãn của họ nhưng quay lưng lại với cuộc đời bằng những giấc mộng miên man về
một cõi vô biên nào đó; các nhà thơ sau 1954 từ chối tính chất đương nhiên của
cuộc đời bằng những phản kháng, những giãy giụa gào thét nhưng lại chấp nhận
đối diện cuộc đời như một thực tại không thể tránh khỏi và như một đối tượng
cần đào sâu của ý thức, từ đó, của chính thơ ca.
Những
sự khác biệt trên dẫn đến những sự khác biệt khác có ý nghĩa quyết định: trong
khi các nhà Thơ Mới làm thơ như những thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống trong
thế giới của cái đẹp, của mộng mơ, các nhà thơ sau 1954 làm thơ như những người
thường không phải là thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống giữa thế giới đầy bão
bùng, đầy bụi bặm của hiện thực. Các nhà Thơ Mới quan niệm nhà thơ là những kẻ
sáng tạo, một thứ tạo hoá con con; các nhà thơ sau 1954 quan niệm nhà thơ chỉ
là người hục hặc tra vấn cuộc đời và tâm hồn mình, người đi lượm nhặt những
mảnh vỡ trong nhận thức và trong cảm xúc để lắp ghép, tô bồi lại thành một tác
phẩm nghệ thuật.
Các
nhà Thơ Mới luôn luôn cô độc; các nhà thơ sau 1954, như Thanh Tâm
Tuyền khẳng định, “[Tôi] không còn cô độc” nữa. Họ đồng nhất họ với thân
phận con người nói chung, do đó, họ đỡ bơ vơ hơn, đỡ lạc loài hơn, nhưng ngược
lại, họ lại bị dày vò hơn và nhiều đau đớn hơn: họ phải gánh cái gánh nặng của
cả nhân loại. Nhã Ca buồn, trước hết, cũng buồn vì là... con gái: “Tôi làm
con gái / Buồn như lá cây”; tự hào, trước hết, cũng tự hào vì là... đàn bà: “Tôi
sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa /... Bởi tôi là đàn bà”. Vũ Hoàng
Chương không còn cay đắng vì, cùng với một ít người khác, do tài hoa cao
ngất, độc đáo, không ai hiểu được, “bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh” mà
não nề vì sự bế tắc trong khả năng nhận thức của con người: “Dấu hỏi (?) vây
quanh trọn kiếp người / Sên bò nát óc máu thầm rơi”. Quách Thoại làm
thơ là để “nói lời thơ đời nhân loại đau thương”. Nguyên Sa mang trong
lòng cả nỗi buồn của thế kỷ: “Thế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt / Dăm bảy nụ
cười không đủ xoá ưu tư”. Bùi Giáng mang trong lòng cả cái lạnh của kiếp
nhân sinh: “Phiêu bồng sáu cõi thu trôi / Ngàn mưa nhỏ giọt trang đời lạnh ghê”.
Việc dẫn chứng có thể kéo dài vô tận. Dĩ nhiên người ta có thể nêu ra một số
nhà thơ khác, ở miền Nam ,
không bị quằn quại về vấn đề số phận. Như trường hợp của Phạm Thiên Thư, người
được Võ Phiến nhận xét là “giữa một thời ác liệt đầy âm thanh và cuồng nộ,
ông giữ được quân bình an lạc trong tâm hồn” (8). Có thể. Nhưng chỉ trong vài
bài thơ của Phạm Thiên Thư được Võ Phiến tuyển, tôi ngạc nhiên bắt gặp hai câu
này:
nay
áo đã cuốn về thiên cổ
lá vàng bay lạnh nỗi niềm không
(Áo thu)
lá vàng bay lạnh nỗi niềm không
(Áo thu)
Lạnh.
Nỗi niềm không. Chiếc lá như một kiếp người. Nó khác biết bao với chiếc “lá
vàng trước gió sẽ đưa vèo” trong thơ Nguyễn Khuyến, những chiếc lá vàng,
lá hồng từ tường bắc sang tường đông trong thơ Tản Đà, chiếc lá mơ rơi giữa
rừng mơ trong thơ Nguyễn Bính. Tất cả những chiếc lá ấy, buồn có buồn, nhưng
chỉ là nỗi buồn hiu hắt. Như một nỗi ngẩn ngơ. Thế thôi.
Cho
nên, có thể nói, ở miền Nam ,
nhà thơ có tài nào, không nhiều thì ít, cũng bị ảnh hưởng bởi những băn khoăn,
những khắc khoải siêu hình.
***
Chú
thich:
Thanh
Tâm Tuyền (1955), “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, in trên Sáng Tạo số
31 (9.1959), tr. 1-6; sau, in lại trên Giai phẩm Văn (Saigon) số
tháng 11.1973 (số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền), tr. 64-71; in lại trongBốn mươi
năm thơ Việt Nam 1945-1985 của
Thi Vũ, Quê Mẹ, Paris ,
1993, tr. 274-280.
Bùi
Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon ,
tr. 33.
Võ
Phiến (1990), “Thế cuộc”, Làng Văn số 71 (7.90), tr. 41.
Thanh
Tâm Tuyền (1955), bđd.
Võ
Phiến (1994), “Thơ tình Trần Dạ Từ”, Thế Kỷ 21 số 61 (5.94), tr.
59.
Thanh
Tâm Tuyền (1956), “Nhân nghĩ về hội hoạ”, in lại trên Giai phẩm Văn số
tháng 11.1973, tr. 74.
Thanh
Tâm Tuyền (1955), bđd.
Võ
Phiến (1991), Thơ miền Nam ,
tập 1, Văn Nghệ , California , tr. 60.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
*****
Nov
28, 2014
Sau
năm 1975, chiếm được miền Nam, mức độ chống phá văn học miền Nam của đảng Cộng
sản ngày càng gia tăng với một quy mô rộng khắp và với một mức độ vô cùng dữ
dội. Không có cuộc Đại hội đảng nào, cộng sản ...
Nov
19, 2014
Trong
phạm vi văn học, có lẽ chỉ có những điều vớ vẩn nhất, tức những điều ngay cả
những người không biết đọc và không biết viết cũng biết, mới hy vọng có thể
được mọi người đồng ý. Tuy nhiên, tôi vẫn không ngớt ngạc ...
Nov
24, 2014
Tôi
không hề có ảo tưởng các bài thuyết trình ấy có thể trả lời mọi câu hỏi liên
quan đến đặc điểm cũng như các thành tựu của văn học miền Nam thời kỳ
1954-1975. Không có cuộc hội thảo nào có thể làm được việc đó.
Oct
11, 2014
Những
sự khám phá ấy có thể không làm thay đổi giá trị tác phẩm được phân tích nhưng
lại có tác dụng làm thay đổi cách đọc cũng như cách chúng ta nhìn về văn học.
Nhờ những sự thay đổi ấy, những tác phẩm văn học ...
Jul
23, 2014
Nhà
văn Dương Thu Hương có lần kể, sau năm 1975, điều khiến bà ngạc nhiên và, sau
đó, làm thay đổi hẳn cách suy nghĩ về chính trị của bà chính là các tác phẩm
văn học, cả sáng tác lẫn dịch thuật, mà bà được đọc tại Sài ...
Jul
18, 2014
Từ
cuối thập niên 1970 đến giữa thập niên 1980, ở Việt Nam, cả Nguyễn Minh Châu
lẫn Hoàng Kiến đều phê phán việc sử dụng văn học để phục vụ cho chính trị qua
những tác phẩm minh hoạ như thế. Thứ ba, tính chính trị ...
Oct
31, 2014
Nói
cách khác, nguyên nhân chính của tình trạng xô bồ và nhếch nhác trong sinh hoạt
văn học Việt Nam
lâu nay không phải chỉ do sự hiện diện của những kẻ mạo danh mà còn vì, nếu
không muốn nói chủ yếu là vì sự bất tài ...
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.