Chưa kịp mừng vui vì
có được tấm bằng giỏi của trường Đại học Sư phạm trong tay, Minh lại đối mặt với
gánh nặng thất nghiệp khi gia đình không có mối quan hệ trong ngành cũng như
300 triệu VNĐ để giúp sinh viên vừa tốt nghiệp như cô được đứng lớp ở một trường
THCS với mức lương 2 triệu VNĐ một tháng.
Có chăng trường hợp
của Minh không phải là duy nhất khi hàng vạn sinh viên ra trường mỗi năm phải
‘chạy vạy’ xin việc nếu có nguyện vọng xin việc vào các công ty nhà nước, mà điển
hình rõ ràng nhất tồn tại trong ngành giáo dục, ngân hàng, hàng hải, hoá dầu.
Đầu tư cho tấm bằng
đại học đã là chuyện không đơn giản, nhất là đối với con em những gia đình
không khá giả, hay khó khăn hơn nữa với sinh viên diện vay tiền ngân hàng để
đóng học phí. Sau khi ra trường, con đường tìm việc đối với họ khó khăn hơn nhiều
lần khi không có sự hỗ trợ của gia đình về mối quan hệ trong ngành nghề mà mình
yêu thích hay một khoản tiền lớn đi kèm.
Để có việc ‘dễ dàng
hơn’, ‘chi phí’ cho từng ngành nghề ở mỗi khu vực được cho là khác nhau. Không
ai khác, những cựu sinh viên đang mỏi mắt tìm việc trong thị trường hiện nay là
người nắm thông tin này rõ nhất.
Thực tế chứng minh rằng
để xin việc vào các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan thực thi pháp luật, dịch
vụ công, quản lý hành chính, những bộ máy được hưởng lương từ ngân sách nhà nước
như giáo dục, hải quan hay y tế,... sinh viên có năng lực, bằng cấp thôi là
chưa đủ.
Để trở thành nhân
viên hải quan cảng Hải Phòng hưởng mức lương tối thiểu 1.115.000 VNĐ một tháng,
Đạt, sinh viên tốt nghiệp ngành quản lý đã chấp nhận bỏ ra 900 triệu, người được
hỏi cũng xác nhận rằng con số này có thể dao động từ 900 triệu đến 1 tỉ 200 triệu
VNĐ, trước khi theo học nghiệp vụ, ‘tùy vào mối quan hệ với các lãnh đạo trong
ngành’.
Anh cho hay ‘nhân
viên hải quan có cơ hội tiếp xúc nhiều với hàng hóa’, sẽ có thêm ‘các nguồn thu
khác’ nên người muốn làm ngành này cũng phải ‘đầu tư cao hơn’ khi khả năng ‘thu
hồi vốn’ là ‘trong tầm tay’.
Hay như trường hợp của
Thư, dù đã qua vòng phỏng vấn, cũng vẫn phải nộp 200 triệu để được vào làm kĩ
thuật viên Tập đoàn dầu khí hưởng lương 30 triệu một tháng hay Bình bỏ ra 400
triệu để làm việc ở phòng kế toán.
Ba trường hợp kể
trên là ví du điển hình trong vô vàn những ví dụ khác, khắc họa thực trạng
chung của xã hội, nói như Minh, cựu sinh viên Đại Học Sư phạm Hà Nội là ‘ra trường
bây giờ muốn có việc làm phải biết điều, biết thích nghi mới mong có hợp đồng
hay vào biên chế’.
Hưởng thụ an nhàn
Do đâu những sinh
viên này chấp nhận bỏ ra một số tiền lớn ban đầu để tìm việc trong doanh nghiệp
nhà nước, cũng đồng nghĩa với ‘làm không lương trong vòng nhiều năm’?
Đạt cho hay nghề của
anh ‘an nhàn và ổn định lắm’, lại có thêm nhiều ‘khoản khác’ nên sẽ ‘nhanh
chóng giàu có mà không phải lo nghĩ nhiều’.
Có phải một bộ phận
không nhỏ những người trẻ hiện nay đã sớm hình thành tâm lý ỷ lại, sống dựa dẫm,
muốn giàu sang nhanh chóng nhưng lại lười lao động, tìm công việc ‘an nhàn và ổn
định lắm’, ‘mức lương chính và phụ cao’, thay vì tìm kiếm ngành nghề phù hợp với
đam mê và sở thích cá nhân để được cống hiến và sáng tạo?
Rất khó cống hiến
Quay trở lại trường
hợp của Minh, vì không có đủ số tiền để ‘chạy vạy’, cô phải làm nhiều việc trái
ngành nếu không muốn thất nghiệp để chờ cơ hội kiếm đủ số tiền 300 triệu VNĐ.
Vậy là sau bao năm
đèn sách trên giảng đường đại học, giấc mơ làm giáo viên của Minh cũng đành
hoãn lại.
Minh cho hay một số
người bạn của cô lựa chọn học cao lên bậc thạc sĩ, tiến sĩ để ‘né thất nghiệp’,
tìm kiếm cơ hội khác, thế nhưng thành phần tìm được công việc như mong muốn
trong số này cũng không nhiều.
Người người chạy việc,
nhà nhà chạy việc, thế nên đây đã trở thành một quy tắc ngầm đối với bất kể
ngành nào có sự góp mặt của yếu tố nhà nước.
Nhìn vào báo cáo quý
1 năm 2014 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Việt Nam ghi nhận tình trạng
thất nghiệp ở nhóm lao động trình độ chuyên môn ngày càng tăng, cụ thể có
79.100 người có trình độ cao đẳng bị thất nghiệp, 162.400 người có trình độ từ
đại học trở lên bị thất nghiệp.
Biết được thực tế, để
tồn tại trong môi trường lao động khắc nghiệt như hiện nay, ‘nguồn nhân lực của
đất nước’ cũng chỉ biết ‘sống chung với lũ’ , có người chấp nhận và hùa theo,
coi việc bỏ tiền ra là đáng làm, cũng có người tìm cách thích nghi hay tìm cơ hội
làm việc khác.
Suy cho cùng, để có
công việc như mong muốn, được đóng góp cho xã hội, phát huy được sáng tạo và
nâng cao kĩ năng mà vẫn không đánh mất bản thân không phải là chuyện dễ dàng.
Họ, những người trẻ
đầy nhiệt huyết trước ngưỡng cửa lập nghiệp, đang trở thành ‘nạn nhân’ hay ‘kẻ
tiếp tay’ cho một tệ nạn trên thị trường lao động Việt Nam?
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.