LTS:
Bài phỏng vấn về Pháp Luật Thực Dụng, được trích trong chương trình Tuổi Thu Hồng
Xuân trên đài VNHN
Buổi
phỏng vấn Thầy Nguyễn Mạnh San về một trong những yếu tố pháp lý thực dụng của một
đề tài tổng hợp: Hệ Thống Xử Án và Tổ Chức Các Tòa Án Liên bang Hoa Kỳ, trong
cuốn Tuyển Tập Pháp Luật Hoa Kỳ Thực
Dụng, do PT Nguyễn Mạnh San biên soạn.
Thụy
Vi: Hôm nay Thụy Vi rất mừng là Thầy đã nhận lời đến với chương trình “Tuổi thu hồng xuân” để có thể
chia sẻ với Quý thính giả của đài Văn Nghệ Hải Ngoại về một trong những khía
cạnh pháp lý thực dụng, mà Thầy đã viết trong cuốn Tuyển Tập Pháp Lý Hoa Kỳ
Thực Dụng (US Applicable Law) này.
Thầy
San: Trước khi trả lời trực tiếp về câu hỏi của Thụy Vi, Thầy muốn dành một
phút để nói đôi lời cám ơn chị Kim Quyên làm việc tại đài Việt Nam Hải Ngoại. Cách
đây hơn một năm chị Kim Quyên có mời Thầy nói về những đề tài pháp lý thực dụng
trên đài Việ Nam Hải Ngoại như ngày hôm nay Thụy Vi mời Thầy; tuy nhiên lúc đó
Thầy còn đang làm việc, chưa về hưu, nên Thầy không thể đáp ứng lại lời yêu cầu
của chị Kim Quyên được. Và bây giờ thì tình cờ Thụy Vi lại mời Thầy nói về đề
tài mà trước kia chị Kim Quyên đã mời Thầy. Thì đây cũng là theo Thánh Ý Chúa
muốn cho Thầy một dịp để gặp lại Thụy Vi, là một người ngày xưa Thầy dạy trường
Taberd đường Nguyễn Du Sàigòn, vào những ngày cuối tuần, Frere Algilbert Nguyễn
Văn Cách và Thầy, thay phiên nhau lái chiếc xe van của nhà trường, chở phái
đoàn y tế (COMITA) với các bác sĩ đi khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người
nghèo ở những vùng ngoại ô Sàigòn. Bây giờ đã là mấy chục năm nay rồi, gặp lại
Thụy Vi, đó cũng là sự hội ngộ rất là đặc biệt, vì thế mà Thầy sẵn sàng để trả
lời câu hỏi của Thụy Vi về đề tài này.
Trước
tiên xin cảm ơn Thụy Vi và đồng thời cảm ơn các Quý thính giả đang nghe đài
Việt Nam Hải Ngoại về nhiều vấn đề pháp lý trong đề tài ngày hôm nay, mà Thầy rất
hân hạnh được trả lời những câu hỏi của Thụy Vi nêu lên, trong cuốn Tuyển Tập Pháp
Luật Hoa Kỳ Thực Dụng, như đã đề cập ở trên.
Thụy
Vi: Cảm ơn Thầy San đã nhắc lại kỷ niệm rất đẹp mà ngày xưa khi còn ở bên Việt
Nam, lúc đó vào những ngày cuối tuần, sau những giờ dạy học mệt mỏi, Thầy San
đã cùng với Frere Adrien Hóa ( còn gọi là Ông Chủ) và Frere Algilbert Cách ở
trường Taberd, mời những vị bác sĩ và những chị em học sinh trong đó có Thụy Vi,
đến những làng mạc xa xôi hẻo lánh, để giúp những người kém may mắn được chẩn
bệnh, phát thuốc miễn phí và cắt tóc. Một hình ảnh thật đẹp mà khó quên phải
không Thầy ?
Nói về luật di trú thì Thụy Vi thấy rất là phức
tạp và Thầy cũng đã viết đến 45 đề tài Pháp Lý Thực Dụng trong quyển sách của
Thầy, nhưng mà hôm nay thì Thụy Vi xin được lấy ý kiến của Thầy về một trong
những phương diện pháp lý, mà Thầy biết được, đó là đề tài hiện tại mà Thụy Vi
đi đến cộng đồng Việt Nam, nghe nói tới rất nhiều, đó là việc các ông ngay cả
các bác cao niên về Việt Nam lấy vợ trẻ và Thụy Vi cũng đã thực hiện những cuộc
phỏng vấn họ, để lấy ý kiến về đề tài này rất nhiều, một đề đã được bàn cãi rất
là sôi nổi, mà Thụy Vi sẽ cho phát thanh để gởi đến quý thính giả trong một
ngày rất gần đây.
Hôm
nay, không biết Thầy có những câu chuyện nào đó liên quan đến những vấn đề mà
Thụy Vi vừa mới nêu ra, để Thầy có thể chia sẻ với Quý thính giả đang lắng nghe
đài Việt Nam Hải Ngoại không ạ ?
Thầy
San: Trước tiên để trả lời câu hỏi vừa rồi của Thụy Vi, thì Thầy xin đưa ra một
câu chuyện thực tế và đồng thời cũng liên hệ đến vấn đề luật di trú mà Thụy Vi
vừa mới nói. Đề tài mà mọi người trẻ cũng như người cao niên về Việt Nam
lập gia đình.
Những
điều mà Thầy trình bày ở đây, hoàn toàn không có tính cách làm bài học giáo dục
người ta, là nên hay không nên về Việt Nam lập gia đình, nhưng mà Thầy chỉ muốn
thuật lại những dữ kiện có thật, cho mọi người cùng tìm hiểu để tự mình quyết định lấy, và tự mình suy luận
lấy xem mình có nên hay không nên có những hành động như trong câu hỏi trên đây
của Thụy Vi và để trả lời câu hỏi này, Thầy xin kể lại một câu chuyện như sau:
Một
trường hợp có một anh tên là Tùng, đi về VN lập gia đình và lập thủ tục bảo trợ
cô Thu sang Hoa Kỳ theo diện Fiance, rồi sẽ lập hôn thú với cô ngay sau khi cô
tới Hoa Kỳ. Ít lâu sau, cô này được qua diện fiance, cô này hơn anh tới 9,10
tuổi, nhưng vì cô này chưa bao giờ lập gia đình, nhà giàu có khá giả, cho nên
cô ấy trông bề ngoài không có vẻ gì là nhiều tuổi hơn anh. Khi cô sang tới đây
rồi, cô cảm thấy thực sự yêu anh, nhưng khổ một nỗi anh này trước kia đã có một
đời vợ và vợ anh đã bỏ anh đi lập gia đình với một người Hoa Kỳ, cho nên trong
thâm tâm anh cưới cô này chỉ vì lòng nhân đạo, là muốn giúp đỡ cô sang Hoa Kỳ
theo ước vọng của Cha Mẹ cô, mà anh quen biết cô qua sự giới thiệu trung gian
của người họ hàng với anh ở Việt Nam. Nhưng khi cô này sang tới đây rồi, thì cô
lại cảm thấy thương yêu anh thật tình. Trong khi đó, trong long anh này vẫn còn
ôm mối hận thù với người vợ cũ đã ly dị anh để bước sang thuyền khác. Nên sau khi
anh đã lập giá thú với cô Thu và chính thức nạp đơn với sở Di Trú, để cho cô trở
được thành thường trú nhân, được phép ở lại đây theo diện vợ chồng, nhưng tới ngày
cô được sở Di Trú mời đến phỏng vấn, cô chỉ đi có một mình. Lý do, vì chồng cô
ở với cô mới được khoảng 6 tháng, thì anh lặng lẽ bỏ nhà ra đi mà không có một lời
nào từ biệt cô. Khi cô một mình đến trình diện sở Di Trú, vị giám khảo hỏi cô là
tại sao chồng cô vắng mặt, không đến với cô hôm nay, vì trong thư đều mời cả
hai vợ chồng đến phỏng vấn. Cô liền kể hết sự tình cho vị Giám Khảo nghe, là chồng
cô đã tự ý bỏ nhà ra đi từ mấy tháng nay, mà không có một lời nào từ giã cô
hết, nên cô cũng không biết hiện giờ chồng cô đang ở đâu.
Sau
cùng, vị Giám Khảo cho cô biết nếu sự thật đúng như lời giải thích của cô, sau
khi nội vụ được điều tra, thì chồng cô sẽ bị coi là người vô trách nhiệm và
thiếu bổn phận làm chồng đối với vợ và căn cứ vào Luật Di Trú, cô sẽ được cấp
phát Thẻ Thường Trú tạm thời 2 năm để được phép ở lại Hoa Kỳ làm việc. Sau 2
năm, nếu cô có hạnh kiềm tốt, làm việc đóng thuế đầy đủ, không vi phạm pháp
luật Hoa Kỳ, thì cô sẽ được quyền đổi Thẻ Thường Trú 2 năm thành 10 năm thực
thụ và cứ cách 10 năm lại có quyền đổi thẻ 10 năm khác, và sau 3 năm kể từ ngày
được cấp Thẻ Thường Trú, cô có thể nạp đơn xin nhập tịch để trở thành công dân
Hoa Kỳ.
Thời
gian khoảng 1 năm sau, cô nhận được lá thư của chồng gửi về cho cô, yêu cầu cô
hãy tha lỗi cho anh và sở dĩ mà anh lặng lẽ ra đi như vậy, vì hiện tại anh đang
ở với một người con gái Mỹ trẻ đẹp, chỉ vì anh thù hận người vợ cũ đã nhẫn tâm bỏ
anh ra đi lấy chồng khác, nên anh lấy người vợ Mỹ trẻ đẹp này, để trả xong mối
hận thù với người vợ cũ của anh. Tuy nhiên anh cho cô biết là anh vẫn chưa làm
giá thú với cô vợ Mỹ này, vì anh đã có hôn thú với cô và nếu làm giấy ly dị cô
để làm hôn thú với cô Mỹ này, thì cô sẽ bị trục xuất trở về Việt Nam và nếu làm
như thế thì anh cảm thấy anh là kẻ bất nhân bất nghĩa với cô. Do đó, anh sẽ chờ
đợi cô có Thẻ Thường Trú và 2 năm sau ngày cô có Thẻ Thường Trú, lúc đó anh sẽ
làm giấy ly dị cô và một lần nữa xin cô hãy tha thứ cho sự bỏ cô ra đi không một lời từ biệt của anh.
Thật
ra thì cô Thu này thương yêu anh Tùng hết lòng như đã nói ở trên, mặc dàu cô
lớn tuổi hơn anh nhiều, nhưng nét mặt tươi trẻ và thân hình đều đặn của cô,
trông cô tươi trẻ hơn anh rất nhiều, vì anh vừa làm việc lao động chân tay lại
vừa đi học ban đêm, để cố lấy mảnh bằng kỹ sư điện tử, cho nên mặt mũi bề ngoài
anh trông già nua hơn tuổi thật của anh đến 10 tuổi.
Tóm
lại, Luật Di Trú Hoa Kỳ căn cứ vào nhiều yếu tố chính trị, nào là yếu tố tôn
giáo, nhất là yếu tố nhân đạo, vì thế luật di trú Hoa Kỳ rất phức tạp, nhưng nó
được áp dụng công bằng cho tất cả mọi người. Vì thế mà cô này mới được ở lại
Hoa Kỳ.
Thụy
Vi: Trong trường hợp này thì Thụy Vi thấy Pháp luật của Hoa Kỳ rất là nhân đạo,
vì cô Thu mới ở với anh Tùng có khoảng 6 tháng mà anh đẵ bỏ cô ra đi, nhưng mà
cô Thu vẫn được cấp thẻ xanh tạm thời, chắc là cô Thu cũng rất vui mừng vì được
ở lại Mỹ phải không thầy ?
Thầy
San: Thực ra, cô ấy cho Thầy biết cô ấy không cảm thấy vui mừng, vì cô ấy là
người có trình độ văn hóa đại học, lại thuộc gia đình khá giả ở Việt Nam và nếu
cô ấy bị trả về VN, thì không thành vấn đề đối với cô ta, nhưng chỉ vì lòng cô vẫn
còn thiết ta thương yêu ông chồng trẻ tuồi này, nên cô cảm thấy phiền muộn đau
khổ, lúc nào cô cũng buồn rầu, mặc dàu cô đã được quyền ở lại Mỹ và cô vẫn sống
độc thân để hy vọng sự quay trở về của người chồng trẻ tuổi này.
Thụy
Vi: Dạ vâng, nói về việc các ông về VN cưới vợ, thì hầu hết các ông cưới các bà
vợ thật đẹp nè, trẻ nè, xong rồi đem về đến Mỹ giữ trong nhà không cho đi đâu
hết, thậm chí còn ghen bóng ghen gió rồi đánh đập các bà, vậy Thầy có biết câu
chuyện nào thực sự xảy ra và pháp luật có những luật pháp nào để bảo vệ những
người đàn bà như vậy không ạ ?
Thầy
San : Có, đây là 1 trường hợp thứ 2, khác biệt hẳn với trường hợp thứ nhất vừa
kể trên. Cô này là một người rất trẻ tuổi, kém anh này tới mười mấy tuổi, khi
anh này về VN lấy cô, cô này có sắc lại là người có ăn học nữa, mà khi anh về
thì anh không bảo trợ fiance như trường hợp thứ nhất kể trên, mà anh làm giá
thú với cô này ngay tại Việt Nam. Sau khi anh trở lại Hoa Kỳ, anh đã lập thủ
tục bảo trợ cô với Sở Di Trú. Qua vài tháng sau, vợ anh ở VN được gọi đi phỏng
vấn và được chấp thuận sang Hoa Kỳ và vài tháng sau sang tới đây, vợ anh nhận
được thẻ xanh, chứ không cần phải đi phỏng vấn bên Hoa Kỳ nữa, vì cô đã là
người vợ chính thức của anh rồi.
Nhưng
khổ nỗi một điều là anh chồng này lớn hơn vợ mình gần hai chục tuổi, nên anh có
nhiều mặc cảm là mình già nua, đáng tuổi chú bác của vợ mình, thành ra vợ anh
sang tớ đây đã 7 tháng trời, anh nhốt cô ở nhà như một tù nhân tại gia, không
cho cô đi đâu hết, không cho giao thiệp với ai hết, nếu cần phải đi đâu, thì
anh lái xe chở vợ đi, ấy thế mà đôi khi anh còn ghen bóng ghen gió với vợ, chỉ
vì vợ mình trẻ đẹp, sợ người khác dụ dỗ vợ mình bỏ anh ra đi lấy người ta, rồi
đôi khi ghen quá mất khôn, có hành động vũ phu đối với vợ. Ngay chính những
người thân trong gia đình anh biết được những hành động cư xử này của anh đối
với vợ như thế, cũng tỏ ra bất mãn với anh. Cho nên người thân trong gia đình
của anh, đợi lúc anh không có ở nhà, giải thích cho cô biết rằng ở bên Hoa Kỳ,
không có cái trò dùng người vợ như một tên nô lệ trong nhà, nhất là làm nô lệ cho
tình dục, nếu còn xẩy ra như vậy nữa, thì nên điện thoại cho 911, nhân viên
công lực sẽ tới ngay để bảo vệ an ninh an toàn tính mạng của nạn nhân bị hành
hung. Do đó, lần thứ hai khi cô bị người chồng hành hung, đe dọa giết cô, thì cô
gọi 911 và chỉ độ 15 phút sau, cảnh sát đến tận nhà đưa cô đến nơi trú ẩn,
không một ai biết cô đang ở đâu và cũng chỉ vài giờ sau, cảnh sát chờ sẵn ở cửa
nhà cô, khi chồng cô vừa về tới cửa, là cảnh sát liền còng hai tay anh lại và
dẫn anh lên xe cảnh sát, đưa anh về trại giam để chờ ngày ra tòa xét xử.
Trong
phiên tòa xét xử tội trạng của anh và có nhân chứng chính là người thân trong
gia dình anh, tòa án đã tuyên phạt anh 9 tháng tù ở và 2 năm tù treo. Thụy Vi nên
biết rằng có cùng một tội phạm, nhưng án phạt ở tù lâu năm hay ít năm, còn tùy
thuộc vào luật pháp của mỗi tiểu bang khác nhau, chứ không phải luật pháp của
tiểu bang nào cũng giống nhau đâu, có tiểu bang tuyên án tử hình nhưng cũng có
rất nhiều tiểu bang không có án tử hình, mà chỉ có án chung thân mà thôi.
Thành
ra khi nói đến pháp luật ở Hoa Kỳ là nói đến một vấn đề hết sức phức tạp. Tóm
lược lại câu chuyện của anh chàng này, thì đó là một bài học tiêu biểu cho lề
lối xưa kia ở VN, mà người ta gọi là chồng chúa vợ tôi và anh chồng này tưởng
rằng làm như thế sẽ không ai có quyền can thiệp vào chuyện nội bộ gia đình
riêng tư của anh. Mặc dàu cô vợ này ở Mỹ mới được 7 tháng và cô đã ly dị chồng
vì hành động vũ phu của chồng, nhưng cô vẫn được Sở Di Trú cho phép ở lại Mỹ là
một thường trú nhân hợp pháp (Legal Alien), không bị trục xuất trả về Việt Nam,
vì cô là nạn nhân của tình dục và còn là nạn nhân của người chồng có hành động
bạo hành với vợ.
Thụy
Vi: Dạ, cám ơn Thầy đã bỏ thời giờ quý báu để đến với quý thính giả ngày hôm
nay, câu chuyện Thầy vừa kể, quả là bài học về luật pháp Hoa Kỳ mà cộng đồng
chúng ta cần biết để tránh hay giúp đỡ cho những người đồng hương gặp trường
hợp gặp hoàn cảnh khó khăn này. Hy vọng Thầy trở lại với chương trình để tiếp
tục chia sẻ những sự hiểu biết quý giá này.
Thầy:
Trước tiên là cám ơn Quý thính giả của đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngoại tại
Hoa Kỳ, đã lắng nghe sự giải thích cũng như sự trình bày của Thầy đối với những
câu hỏi của Thụy Vi nêu lên. Điều thứ hai là Thụy Vi có nói, là trong tương lai
sẽ mời Thầy quay lại để đề cập đến vấn đề của những chuyện nan giải luật pháp,
thì nếu không có gì trở ngại, Thầy luôn luôn sẵn sàng quay trở lại với Thụy Vi,
nhưng mà không dám hứa chắc 100%, vì hiện
tại, mặc dù đã về hưu nhưng Thầy vẫn còn tình nguyện làm việc cho trại tù,
trong trách nhiệm là một Tuyên Úy trại tù cho Tòa Tổng Giáo Phận Công Giáo
Oklahoma City, thành ra nhiều khi cũng không biết có thời gian hay không, chưa
kể phải đi nhiều nơi để thuyết trình cho các giáo xứ hoặc là hội đoàn mời Thầy,
nhưng mà tuy nhiên nếu có thì giờ, thì Thầy sẵn sàng để mà tiếp tục hợp tác với
Thụy Vi trong chương trình này, để giải đáp những gì thắc mắc mà Thụy Vi thay
mặt cho Quý Khán Thính Giả, cũng như thay mặt cho một số những anh chị em trẻ, để
biết thêm những điều mà mình có thể tránh được, không bị liên lụy đến pháp
luật, nhất là xứ này là xứ pháp trị, lấy pháp luật để trị dân, thì mình phải
nên biết sơ qua về vấn đề pháp luật, mặc dàu mình có thể tham khảo miễn phí với
một số luật sư hoặc khi phải ra hầu tòa, nếu không có tiền thuê mướn luật sư, thì
mình vẫn có thể yêu cầu tòa chỉ định luật sư công đứng ra bào chữa cho mình. Nhưng
mà cái gì cũng vậy, mình nên biết trước thì vẫn hay hơn. Các cụ ngày xưa có câu
nói phòng bệnh hơn chữa bệnh. Vì vậy, nên biết trước để có thể đề phòng, vì có
những hành động vô tình, hoàn toàn ngoài ý muốn của mình, nhưng trước pháp
luật, mình vẫn bị lãnh án phạt tù vì tình ngay mà lý gian. Đó là Thầy xin tạm chấm
dứt buối nói chuyện với Thụy Vi ở đây.
Thụy
Vi: Cám ơn Thầy rất nhiều, hiện tại đã biết rằng Thầy đã về hưu, nhưng Thầy vẫn
dành những thời gian quý báu để giúp cho cộng đồng, một lần nữa hy vọng Thầy sẽ
trở lại chương trình trong 1 ngày gần đây.
** 2 **
Thụy Vi: Thưa Thầy cộng đồng Việt Nam mình thì có
rất nhiều người làm bậy, nhưng vô tình cũng không biết mình đang làm bậy. Cho
nên đã vướng vào con đường tù tội.
Đây là một điều thật
nguy hiểm và đáng tiếc đúng không Thầy? Thụy Vi cũng đã đọc qua cuốn tìm hiểu Pháp
Luật Hoa Kỳ Thực Dụng, do Thầy đã bỏ công ra viết, trong đó có nhiều tiểu đề
tài với những câu chuyện có thật xảy ra, để làm thí dụ cho cộng đồng chúng ta
biết.
Một số trường hợp
đồng hương vì không am tường pháp luật nơi xứ người nên đã phải vào tù, và bây
giờ Thụy Vi xin được phép hỏi, theo ý kiến riêng của Thầy, thì gia đình và cộng
đồng có thể làm gì để giúp cho con em hay các gia đình Việt Nam có thể tránh,
hoặc giảm bớt việc vào tù vì lý do mà Thụy Vi vừa mới nêu ra trên đây không ạ?
Thầy San: Vấn
đề thứ nhất này là: Trong tôn giáo nói chung, Phật giáo cũng như là Công giáo,
khi mà các vị lãnh đạo tinh thần thuyết giảng trong Chùa hay trong Nhà Thờ, thì
nên lấy những tin tức viết trên báo chí, trên đài phát thanh hay trên đài truyền
hình, đưa ra làm những ví dụ cụ thể để nói cho giáo dân biết những chuyện đó. Vì
đó là những vấn đề cho các vị lãnh đạo tinh thần cần nên hướng dẫn quần chúng. Mặt
khác những người trong gia đình, như là Cha Mẹ đối với con cái, cần phải làm gương
cho con cái, nếu mà nói về vấn đề làm bậy, thì thường thường những đứa con ở tuổi
dưới vị thành niên từ 13 cho đến 17, thường thì con cái bị ảnh hưởng nhiều nhất
về cách đối xử của Cha Mẹ đối với con cái và cách đối xử giữa Cha Mẹ với nhau.
Vậy Cha Mẹ là tấm gương trước tiên cho chúng noi theo. Vì trước tiên các em nhỏ
được dạy dỗ trực tiếp từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội, chứ không phải từ ngoài
xã hội vào trong gia đình.
Có nhiều người
lầm tưởng là tại vì cộng đồng mình, không thông tin đầy đủ những tin tức mang
tính cách giáo dục chung cho quần chúng hoặc thiếu sự hướng dẫn đối với giới trẻ
về các vấn đề có liên quan tới pháp luật, nên ngày nay có những người làm bậy,
kể cả người lớn tuổi cũng như những người trẻ tuổi mà không biết mình làm bậy, càng
ngày càng tạo ra các tệ nạn xấu sa trong xã hội.
Tóm lại, Thầy
nói một cách cụ thể là có những trẻ em nói rằng, Cha Mẹ em đi Chùa hay đi Nhà Thờ
rất đều đặn, nhưng khi về tới nhà, bất đồng với nhau một điều gì thì cãi nhau
như mổ bò. Bản chất của người Việt Nam thì rất là kín đáo đối với người ngoài,
cho nên cách thức giao tế với người bên ngoài, luôn luôn được giữ phép lịch sự,
để tỏ ra mình là một người đàng hoàng tử tế, nhưng khi về tới nhà, trước mặt
con cái, có những trường hợp, họ không cần phải giữ phép lịch sự trước mặt con
cái nữa, mà họ cư xử với nhau giống như là chó với mèo, dog and cat.
Phó Tế Nguyễn
Mạnh San và Ô. Nguyễn Văn Cường tổ chức Thánh Lễ do LM. Nguyễn Ngọc Bảo chủ tế
và bữa tiệc văn nghệ mừng xuân cho những cựu tù nhân gốc Á Châu và Phi Châu bị
tạm giam bởi Sở Di Trú Hoa Kỳ
Những trẻ em
đó đã tâm sự với Thầy, là các em chứng kiến cảnh Cha Mẹ có đôi lúc cãi nhau như
thế, làm các em sợ quá, vì các em tưởng như là Cha chúng nó sắp sửa giết nhau,
nhưng thực ra chỉ là những cử chỉ tức giận với những lời nói đe dọa nhau, mà chúng
nó đã nghe quen và nhìn thấy cảnh này nhiều lần rồi, thành ra vô tình Cha Mẹ đã
có những lời nói, cử chỉ làm gương mù cho các con. Do đó, nếu vì lý do gì mà
Cha Mẹ phải cãi lộn nhau, thì nên tránh cãi lộn nhau trước mặt con cái, cho dù
con cái còn rất nhỏ tuổi, nhưng chúng nhìn thấy cảnh cãi lộn nhau như thế này,
làm cho chúng sẽ nhập tâm và khi chúng lớn lên, chúng nhìn đời một cách bi quan
(negative), như thế sẽ làm nguy hại đến cuộc sống tương lai tốt đẹp của chúng
sau này.
Thì đấy là những
vấn đề nan giải nói riêng cho cộng đồng người Việt Nam của mình trên đất Hoa Kỳ, Cha Mẹ
luôn luôn nên là nhưng tấm gương sáng cho con cái noi theo trong gia đình. Còn
nếu mà chờ đợi ở trường học hay ở ngoài xã hội, để có những bài học về công dân
giáo dục như hồi còn ở Việt Nam trước năm 1975, thì không bao giờ có được hết, vì
xứ Mỹ này họ chỉ biết tôn trọng quyền tự do dân chủ đối với mọi lứa tuổi, cho nên
riêng đối với giới trẻ còn cắp sách đến trường, các em không bao giờ có thể học
được những bài học luân lý công dân giáo dục, vì trường học không hề dạy môn học
này, mà theo cá nhân Thầy nghĩ, duy nhất chỉ có thể học môn học này từ trong gia
đình mà ra.
Thụy Vi: Dạ
vâng, có một câu hỏi này tự nhiên Thụy Vi nghĩ tới, dạ xin phép hỏi Thầy là hồi
đó đến giờ Thầy có bao giờ làm tuyên úy cho một người Việt Nam mang tội giết người
hay không ạ ?
Thầy San: Có,
Thụy Vi hỏi câu đó rất là hay. Có một vụ người Việt Nam giết người, là hai người
kết nghĩa với nhau như là anh em, trong thời gian hai người còn ở trong cùng một
trại tỵ nạn tại quốc ngoại, rồi khi sang tới Hoa Kỳ, chỉ vì vấn đề tiền bạc làm
ăn chung với nhau, không thanh toán sằng phẳng với nhau, nên đã gây ra cuộc đổ
máu, người em kết nghĩa đã lỡ tay cầm dao đâm chết người anh kết nghĩa với mình.
Kể từ ngày đầu tiên khi người em này bị tống giam vào trại tù là hơn 10 năm và
cho tới ngày anh bị hành quyết theo bản án tử hình, thì Thầy là người thăm nom anh
thường xuyên và theo lời yêu cầu của anh, là muốn Thầy chứng kiến tận mắt những
giây phút bị hành quyết cuối cùng của cuộc đời anh. Cũng nhờ hơn 10 năm liên tục
thăm nom anh tù nhân người Việt này, mà cá nhân Thầy nhận thấy anh này nằm
trong trường hợp có thể được coi là tình ngay mà lý gian, vì anh cho biết là
anh cầm dao đâm chết người anh kết nghĩa này trong tư thế tự vệ, chứ hoàn toàn
không có ý định giết người. Lẽ dĩ nhiên trường hợp tình ngay mà lý gian xẩy ra
rất hiếm và theo Thầy nghĩ, đáng lý anh này chỉ nên bị buộc vào tội ngộ sát mới
đúng, chứ bị buộc vào tội cố sát thì quá nặng, nhưng đứng trước trước pháp lý,
hành động đâm chết người của anh bị coi là hành động cố sát, nên anh đã lãnh bản
án tử hình.
Thật là một điều
hết sức xui xẻo cho anh, vì ngay từ đầu sự việc xẩy ra, anh đã không có đủ khả
năng tài chánh để thuê mướn một vị luật sư chuyên môn về án tử hình, để bênh vực
cho anh trước tòa án, thành ra cuối cùng thời gian chỉ còn lại 1 năm nữa trước
khi bản án tử hình được thi hành, thì lúc đó anh ta mới có một vị luật sư tình
nguyện đứng ra bênh vực cho anh trước tòa và vị luật sư này chuyên môn về các vụ
giết người, nhưng mà lúc đó thời gian đã quá trễ, không thể cứu vãn được tình
thế, nên anh đã bị hành quyết theo y án tử hình. 24 giờ trước khi bị chích thuốc
cho chết, một giới chức coi tù nhờ Thầy hỏi xem là anh thích ăn món gì cho bữa
ăn cuối cùng của anh (Last Supper), để họ sẽ order nhà hàng mang đến cho anh ăn.
Thầy liền đưa ý kiến với anh là anh nên chọn món phở là món anh ưa thích nhất,
như anh đã từng nói với Thầy câu đó. Vốn sẵn mang trong giòng máu hài hước, anh
trả lời ngay với tôi là: Thầy nói rất đúng, con bị ở tù trên mười mấy năm nay như
Thầy biết và con rất thèm ăn phở, nhưng con chẳng bao giờ có phở để ăn ở trong
tù, nên bây giờ trước khi vĩnh viễn lìa đời, con mới được quyền chọn món ăn, nếu
con chọn món phở, thì con chỉ được ăn có một món phở mà thôi, nhưng nếu con chọn
ăn cơm Tầu (Chinese meal), thì trong đó có nhiều món ăn, con có thể chọn ăn bốn
năm món khác nhau. Vậy dại gì con không chọn ăn cơm Tầu, phải không Thầy? Đằng
nào cũng phải chết, mà ăn một món phở thì uổng quá, nên phải ăn nhiều món cho
đã cái miệng, trước khi con về chầu Chúa và con tin Ngài sẽ tha tội cho con, vì
Ngài biết con không chủ ý giết người, mà đây chỉ là hành động tự vệ của con, vô
tình làm chết người. Thoạt đầu nghe anh nói như vậy, với giọng nói cay đắng mỉa
mai của anh, làm Thầy cứ tưởng rằng anh nói chuyện khôi hài với Thầy, nhưng liền
sau đó, anh nghiêm giọng, yêu cầu Thầy hãy order cho anh ta ăn cơm Tầu và Thầy
đã làm theo lời yêu cầu này của anh. Trước giờ phút anh được trích thuốc để từ
biệt cõi đời phù du này, anh đã yêu cầu sự có mặt ở bên cạnh anh là Linh Mục
Phùng Chí và Thầy.
Thụy Vi: Dạ, câu
chuyện Thầy mới vừa kể thì nghe có vẻ hài hước, nhưng thật ra rất thương tâm và
đáng buồn phải không Thầy?
Thầy: Đúng thế!
Một điều Thụy Vi nên biết nữa, anh này là người tử tội Việt Nam thứ hai bị hành quyết ở tiểu bang Oklahoma , còn anh tử tội
thứ nhất thì Thầy không nhớ tên, cũng ở cùng một tiểu bang này. Nhưng mà anh đó
thì không thuộc thẩm quyền của Thầy, còn anh thứ hai này thuộc thẩm quyền của
Thầy. Như trên Thầy đã nói, muốn giải quyết một vấn đề gì cũng vậy, cần phải có
nhiều thời gian để suy tính, như Thụy Vi biết, kiếm một luật sư chuyên môn, có
kinh nghiệm về những vụ án tử hình, thì không phải là chuyện dễ đâu, nghĩa là
tiền nào của đó, mình phải có tiền nhiều, thì mình mới có thể thuê mướn một luật
sư chuyên môn về các vụ án đại hình (Felony) để bênh vực và bào chữa cho thân
chủ trước tòa. Nhất là khi ra tòa để bào chữa cho tội trạng giết người như vậy,
thì phải có sự hợp tác của những vị bác sĩ chuyên khoa về môn pháp lý tâm thần,
để khám nghiệm cho tội nhân và chỉ khoảng một tuần lễ trước ngày bị hành quyết,
anh tử tội này cũng được khám nghiệm bởi một vị bác sĩ Việt Nam chuyên biệt về
pháp lý tâm thần (forensic doctor) ở California, đó là bác sĩ Lê Đình Phước. Nhưng
rất tiếc ông bác sĩ này được luật sư của tội nhân mời đến khám nghiệm cho đương
sự quá trễ, nên không còn đủ ngày giờ để hoàn tất các thủ tục chứng nghiệm về
pháp lý tâm thần trước tòa, để may ra có thể cứu vãn được mạng sống của đương sự.
Ông bác sĩ này cũng là người sẵn lòng giúp đỡ cho đương sự và ông cũng từng là Mục
Sư khi còn ở Việt Nam . Qua tình bằng
hữu thân thiết trong nhiều năm qua với vị bác sĩ này, Thầy được nhiều người
trong giới luật sư Hoa Kỳ cho Thầy biết, bác sĩ pháp lý tâm thần Lê Đình Phước,
người Mỹ gọi ông là Doctor Lee, là một bác sĩ người Việt đầu tiên chuyên biệt về
ngành pháp lý tâm thần tại Hoa Kỳ và ông cũng thường xuyên tình nguyện đi thăm
các tù nhân như Thầy.
Thụy Vi : Vâng, nói
chung thì ở đâu cũng vậy, nếu mình biết đường mình chạy hoặc mình có thế lực một
chút thì nó cũng đỡ hơn . Nhưng tốt hơn hết, mình nên tránh để khỏi đi vào con
đường tù tội, thì vẫn là điều tốt nhất phải không Thầy?
Dạ thưa Thầy,
theo Thụy Vi nghĩ thì dù sao những người tù nhân được giam ở những trại tù của Mỹ vẫn may mắn, vẫn có phước
hơn là những tù nhân ở các trại giam bên Việt Nam , dưới chế độ cộng sản, Thầy
nghĩ như thế nào ?
Thầy San : Chắc chắn rồi ! Bởi vì bên này chính quyền tôn
trọng quyền tự do và nhân phẩm của con người. Như Thầy vừa nói, là những vụ án
gọi là tình ngay mà lý gian xẩy ra ít, không đáng kể, vì không có một ai được coi là người toàn thiện
(perfect) trên thế gian này, nhưng vấn đề đối xử tình người với người, tôn trọng
quyền tự do cá nhân và nhân phẩm của con
người, thì riêng Thầy nhận thấy Hoa Kỳ là một quốc gia đứng số 1 về vấn đề đối
xử nhân đạo đối với tất cả các tù nhân. Thầy không thấy có một quốc gia nào
trên thế giới, lại có một hệ thống (System) đối xử nhân đạo đối với tù nhân như
nước Hoa Kỳ này.
Thụy Vi: Dạ
vâng, dù sao cũng đối xử giống như một con người cho một con người phải không
Thầy?
Thầy San:
Đúng, Hoa Kỳ rất tôn trọng điều đó.
Thụy Vi: Thụy Vi
cũng đã đọc và tìm hiểu qua cuốn sách về Pháp Luật Hoa Kỳ Thực Dụng, do Thầy đã
bỏ công lao ra viết, trong đó có nhiều tiểu đề tài, với những câu chuyện có thực
xảy ra, để làm ví dụ cho cộng đồng chúng ta biết một số trường hợp, vì không am
tường pháp luật nơi xứ người, nên phải vào tù. Do đó Thụy Vi mong Thầy sẽ trở lại
với chương trình Tuổi Thu Hồng Xuân, để tiếp tục nói về những vấn đề này trong mộ
ngày rất gần đây. Và một lần nữa, Thụy Vi rất cám ơn Thầy đã bỏ thời gian quý
báu, đã đến với chương trình Tuổi Thu Hồng Xuân trong ngày hôm nay.
Thầy San: Xin
cám ơn Thụy Vi và cám ơn Quý Thính Giả đã nghe chúng tôi trình bày và nói chuyện
về những tù nhân tại Hoa Kỳ nói chung và những tù nhân Việt Nam tại Hoa Kỳ nói
riêng. Xin một lần chót cám ơn Quý thính giả của Đài Phát Thanh Việt Nam Hải
Ngoại.
Thụy Vi: Dạ
Vâng, cảm ơn Thầy, xin phép chào Thầy ạ.
Thầy San: Xin
chào Thụy Vi.
** 3 **
Thụy
Vi: Dạ, thưa Thầy, thông thường khi nói đến những người tù nhân, thì người đời thường
không có thiện cảm đối với các can phạm,
vì coi họ là những thành phần nguy hiểm cho xã hội, riêng đối với Thầy, là một
người kinh nghiệm với các tù nhân, vậy theo ý kiến riêng của Thầy, thì Thầy
thấy quan niệm này có đúng hay không ? Và các tù nhân thì thật sự đáng thương
hay đáng ghét ?
Thầy
San : Thứ nhất là Thụy Vi hỏi câu đó rất
là ý nghĩa và rất là sâu sắc. Hồi mà Thầy được chỉ định làm tuyên úy trại tù,
thì trong thâm tâm Thầy đã có ý nghĩ giống như mọi người khác, coi tù nhân là
những người cặn bã trong xã hội và còn là những người gây nguy hiểm cho người
khác nữa. Thế nhưng, khi Thầy làm việc được vài ba năm, thì đúng như câu người
Việt Nam thường nói : Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận, càng ngày càng đi
sâu vào các công tác mục vụ tù nhân, Thầy mới nhận thấy những tù nhân, bất cứ phạm
tội gì, từ tội tiểu hình lên đến tội đại hình, đều do những nguyên nhân tiềm ẩn
khác nhau, dẫn đưa người ta đến chỗ phạm tội, nhất là có những người làm bậy mà
họ không biết là họ làm bậy, nhưng đến khi biết được là mình làm bậy, trong lòng
cảm thấy hối hận thì đã quá muộn màng; còn nếu họ biết họ làm bậy, mà họ vẫn cứ
làm bậy, thì những thành phần như vậy, là họ đã sẵn sàng chấp nhận mọi hình
phạt của chánh quyền nếu họ bị bắt.
Ngoài
ra các tội phạm như cướp của, hiếp dâm, giết người vì thù oán, vì ghen tương
v.v. mà Thầy được các tù nhân tâm sự cho Thầy nghe những nguyên nhân nào đã
thúc đẩy họ phạm tội, vào mỗi lần Thầy đến thăm nom an ủi họ trong các trại tù.
Mục đích họ tâm sự với Thầy không phải là để mong đợi Thầy giúp đỡ họ được ra
khỏi tù sớm hơn đâu, mà họ chỉ muốn có người mà họ tin cậy như Thầy là một
tuyên úy, để họ có thể dốc bầu tâm sự về những hành động sai quấy mà họ đã làm,
giúp họ vơi đi một phần nào niềm ân hận trong lòng. Nhờ đó mà Thầy mới biết
rằng hầu hết 80% những tù nhân phạm tội đại hình (felony), như tội giết người
lãnh án tử hình, thì hầu hết 80% những người đó ở trong thành phần bị gia đình
bỏ rơi hoặc từ hồi bé đã không được Cha Mẹ nuôi dưỡng, săn sóc đàng hoàng hoặc
chơi với bạn bè xấu, rồi bị ảnh hưởng, một khi đã bị ảnh hưởng xấu như vậy, thì
thường thường là bị nghiện xì ke ma túy, nên rất dễ dàng phạm những tội cướp
của giết người, để có tiền mua thuốc hút và một khi đã bị rơi vào tình trạng
nghiệm ngập rồi, thì đâu còn biết phân biệt hành động nào là phải trái nữa. Như
vậy, nếu bị bắt giam vào tù, thì nơi đây vẫn nuôi mình 3 bữa ăn mỗi ngày, mùa
đông cũng có máy sưởi, mùa hè có máy lạnh, sung sướng hơn là những người
homeless phải ngủ ngoài màn trời chiếu đất, nhưng đến khi họ bị giam vào trong trại
tù rồi, thì họ mới thấy sự tự do mới là điều đáng quý nhất trên đời. Thành ra tù
nhân được sống đầy đủ về vật chất, nhưng mà tinh thần họ vẫn thấy thiếu thốn và
khi họ nhận biết ra như vậy, thì đã quá muộn
màng. Như trên Thày đã nói 80% tù nhân bắt nguồn từ hồi còn bé, rồi cho đến khi
trưởng thành là những nạn nhân bị gia đình bỏ rơi, hoàn toàn thiếu sự săn sóc
đầy đủ của Cha Mẹ, vì có những người Cha của tù nhân, lấy tới ba bốn đời vợ,
còn người Mẹ cũng lấy tới ba bốn đời chồng, thì làm sao có thể giáo dục con cái
thành người tốt lành được. Vì thế ở Hoa Kỳ, có những đạo luật bảo vệ trẻ con
dưới tuổi vị thành niên, Cha Mẹ không được quyến lạm dụng con cái còn nhỏ tuổi
để trở thành những kẻ nô lệ cho mình, không
được đánh đập chúng, giam cầm chúng khi chúng nó phạm lỗi lầm dù nhẹ hay nặng. Chính
vì khi còn nhỏ con cái không được Cha Mẹ dạy dỗ đúng cách hoặc bị Cha Mẹ bỏ
rơi, để cho con cái tự ý muốn làm gì thì làm, khi lớn lên, chúng nó sẽ trở
thành những đứa trẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp, vì không được học hành đến nơi
đến chốn, chúng sẽ dễ dàng trở thành những kẻ tội phạm trong xã hội. Đó là một
số nguyên nhân căn bản gây ra tội phạm, mà Thầy giải thích một cách tổng quát
cho Thụy Vi nghe như vậy.
Thụy
Vi : Dạ vâng. Hồi nãy Thụy Vi có nghe Thầy nói có hai thành phần chính, một
thành phần làm bậy nhưng không biết mình làm bậy, còn một thành phần biết mình
làm bậy nhưng mà vẫn làm bậy. Vậy thì Thầy có thể đưa ra một thí dụ cho mỗi
trường hợp, nó rõ ràng hơn để quý thính giả có thể hiểu rõ hơn không ạ ?
Thầy
San: Vâng, thành phần thứ nhất làm bậy, nhưng không biết mình làm bậy, là tại
vì bị nghiện ngập xì ke ma túy rất nặng. Thành phần thứ hai biết mình làm bậy nhưng
mà vẫn làm bậy, là tại vì khi thi hành xong án tù, được thả về nhà, nhưng khi đi
xin việc làm không ai thuê mướn, nên ngựa quen đường cũ, đành phải quay trở về
nghề đi ăn trộm ăn cướp, nếu cần phải giết người cũng giết để có tiền nuôi thân,
thành phần thứ hai này rất muốn hoàn lương, để trở thành người tử tế, nhưng họ
đã không có cơ hội nào để hoàn lương vì lý do vừa được nêu trên đây. Còn thành
phần thứ nhất rất khó có thể hoàn lương, để trở thành những người tử tế, vì
chất xì ke ma túy đã ngấm vào trong máu của họ rồi, họ dễ dàng phạm tội để miễn
sao có tiền mua thuốc hút, nên trong thành phần này, rất ít người có thể hoàn
lương. Nói tóm lại, nếu Thụy Vi muốn Thầy kể cho Thụy Vi nghe một câu chuyện
khác về tù nhân, thì Thầy sẵn sàng kể tiếp cho Thụy vi nghe.
Thụy
Vi: Dạ vâng, Thầy làm trong tù trên 10 năm rồi, thì Thầy đã nghe thấy rất nhiều
chuyện thương tâm, những chuyện mà thật sự đáng tiếc xảy ra, những chuyện đó
đều có thật hết. Thì Thầy có thể cho một vài ví dụ đối với Thầy, thì Thầy thấy rất
đáng thương, đáng tội nghiệp ạ !
Ông
Chánh Án Ralph G. Thompson chủ tọa Buổi Lễ Tuyên Thệ Nhập Tịch và Phó Tế Nguyễn
Mạnh San, Phụ Tá Trưởng Phòng Tố Tụng tại Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, Oklahoma
City, OKlahoma.
Thầy
San: À vâng, trước khi trả lời câu hỏi của Thụy Vi, Thầy xin minh xác lại là vừa
rồi Thụy Vi nói Thầy làm trên 10 năm trong trại tù, nhưng thực ra là Thầy làm
trên 18 năm liên tục cho tới bây giờ vẫn còn làm trại tù. Thầy so sánh (Compare)
những tù nhân Á Châu nói chung và người Hoa Kỳ nói riêng, thì tù nhân Á Châu
trong đó gồm có Việt Nam, Tàu, Mễ Tây Cơ v.v…thì đây là lúc những người thân
trong gia đình của các tù nhân, như Cha Mẹ, con cái, anh chị em cảm thấy thương
xót người thân của họ bị ở tù nhiều nhất và họ chỉ được phép thăm tù nhân của
họ mỗi tuần một lần, nhưng nếu được phép thăm hai hay ba bốn lần mỗi tuần, thì
họ cũng vào thăm, tại vì họ nói rằng cho dù vợ, chồng hay con cái của họ làm
bậy, hoặc là ông hay bà của họ làm bậy, nhưng trong giờ phút này họ cảm thấy thương
xót cho người thân của họ bị tù tội. Ngược lại cách đối xử của người Hoa Kỳ đối
với thân nhân của họ bị ở tù, thì lại khác hẳn với người Á Châu nói chung, tuy
nhiên vẫn có một số rất ít người Hoa Kỳ, cách đối xử của họ cũng giống người Á
Châu như Thầy vừa mới nói trên đây, còn thường ra, ngay cả những người thân yêu
trong gia đình như là con cái, vợ hay chồng, Cha Mẹ v.v…nếu bị bắt vào trại tạm
giam đề chờ ngày tòa xét xử, thì những người thân ở bên ngoài, có khi cả 1
tháng mới tới thăm tội nhân 1 lần, nhiều người không phải vì lý do bận rộn mà
không đến thăm nom tội nhân, hay vì ngăn trở công ăn việc làm, không thể đến
thăm tội nhân thân thương của mình được, mà họ giải thích lý do bằng ngôn từ tiếng
Mỹ: What you did wrong, you deserve for what you did, có nghĩa là: Anh đã làm
điều sai lầm, thì anh xứng đáng phải nhận lãnh hậu quả của việc anh đã làm. Hoặc
nói một cách vắn tắt: Cho đáng đời. Vì người Mỹ quan niệm rằng người nào gây ra
tội thì người ấy phải chịu tội, bất kể người đó là người thân trong gia đình.
Thầy
xin kể lại một vụ mới xẩy ra làm điển hình cho sự khác biệt giữa người Á Châu
với người Hoa Kỳ, như vừa mới giải thích trên đây. Có một anh chồng Mỹ bị bắt
vào trại tạm giam, để chờ ngày ra tòa xét xử về tội đánh vợ, nhưng không gây
thương tích nặng cho vợ. Mặc dầu người vợ có khả năng tài chánh để có thể đóng
tiền thế chân (Bail bond) cho chồng được tại ngoại về nhà chờ ngày ra tòa xử,
nhưng người vợ không chịu đóng tiền thế chân cho chồng được tại ngoại, nại lý
do là để chồng nằm trong tù một thời gian, có thì giờ nhàn rỗi để cho chồng
mình suy xét lại hành động vũ phu của anh đối với vợ và hy vọng anh sẽ lấy đó
làm một bài học hối cải. Anh chồng này ở trong tù đã gần 3 tháng, thì cảm thấy
nhớ vợ con và nhờ Thầy liên lạc để yêu cầu người vợ hãy đưa con vào cho chồng
thấy mặt vợ con. Nhưng mà người vợ từ chối, nói lý do là nếu đưa con vào thăm
Bố trong trại giam như vậy, thì không tốt cho đứa con mới 6 tuổi, vì nó sẽ nhìn
thấy Bố nó mặc áo tù và nó sẽ thắc mắc tại sao Bố nó lại bị ở tù, và tại sao Mẹ
nó lại nói dối với nó là Bố đi công tác xa chưa về. Chính vì thế mà người vợ từ
chối không chịu đưa con vào thăm Bố nó trong trại giam, đồng thời người vợ cũng
cả tháng mới vào thăm chồng một lần và nại lý do là bận rộn phải săn sóc con,
nên không có thì giờ rảnh rỗi để vào thăm chồng thường xuyên. Đọc tới đây chúng
ta nhận thấy nền văn hóa Á Châu nói chung, khác biệt với nền văn hóa Hoa Kỳ nói
riêng. Chẳng hạn người Á Châu, luôn luôn thương yêu tất cả những người thân
thương của mình, khi bị ở tù cho dù phạm tội nhẹ hay phạm tội nặng, họ đều đến
thăm tội nhân nhiều lần nếu có thể. Còn người Hoa Kỳ thì họ chỉ thăm tượng trưng,
vì họ muốn cho những người thân của họ đã làm những chuyện tầm bậy, thì phải đền
tội trước pháp luật.
Thực
ra mỗi nền văn hóa của mỗi quốc gia đều có cái hay cái dở của quốc gia đó. Tuy
nhiên người ta nhận thấy đa số người dân thuộc các quốc gia Á Châu, thì bản
chất của họ chứa đựng nhiều tình cảm hơn những người dân Âu Châu và Mỹ Châu. Sau
hơn 18 năm liên tục được phục vụ các tù nhân thuộc nhiều sắc tộc trên thế giới,
Thầy nhận thấy có một điều khá đặc biệt, là tù nhân người Mỹ nói riêng, trước
khi họ bị ở tù, họ dữ dằn một, nhưng đến khi bị vào tù, họ lại dữ dằn gấp đôi,
vì họ tức giận là mất sự tự do đi lại, như con sư tử bị nhốt trong chuồng. Trái
lại những người tù Á Châu nói chung, ở ngoài thuộc thành phần băng đảng hoặc thuộc
thành phần du đãng dữ dằn, nhưng khi vào tù, thì họ lại rất hiền lành, ngoan
ngoãn như con cừu non, không có những hành động chống đối hay chửi bới những
nhân viên trong trại tù. Thành ra những nhân viên làm việc trong trại tù rất
thích săn sóc cho những tù nhân Á Châu. Thầy được biết tại sao tù nhân Á Châu ở
ngoài dữ dằn bao nhiêu nhưng đến khi vào tù lại hiền lành bấy nhiêu, vì họ nghĩ
rằng nếu mình ở trong tù tỏ ra ngoan ngoãn, hiền lành, thì mình sẽ được chóng ra
khỏi tù, còn tù nhân Mỹ không nghĩ như vậy, mặc dầu biết mình có tội nên bị ở
tù, nhưng vì mất sự tự do, không được đi đứng như ý muốn, thành ra đôi khi có
thái độ hung hăng, bực tức, chửi bới những nhân viên làm việc trong trại tù.
Thụy
Vi: Theo như Thầy vừa mới cho biết, thì hầu hết những người Á Châu khi vào trong
tù thường rất hiền lành, rất là ngoan ngoãn, tuân theo các lề luật. Vậy thì
Thầy có thấy nhiều người Á Châu được ân xá ra khỏi tù trước khi mãn nhiệm kỳ
thời gian ở tù của mình không Thầy ?
Thầy
San: Vâng, khi mà đã lãnh bản án vào tù rồi, thì đương nhiên thời gian ở trong
tù, sẽ được các người coi tù chấm điểm hạnh kiểm của mỗi tù nhân. Nếu 1 ngày ở
tù có hạnh kiểm tốt, thì sẽ được cộng thêm 1 ngày nữa thành 2 ngày. Điều này
chỉ được áp dụng trong các trại tù của tiểu bang thôi, trại tù liên bang không áp
dụng điều này. Cũng cần nên biết là cứ hàng năm tại mỗi tiểu bang, đều có những
vụ ân xá, hay đại xá do Hội Đồng Cứu Xét Ân Xá đề nghị lên vị Thống Đốc của
tiểu bang để được chấp thuận và vị Thống Đốc sẽ ký sắc lệnh ban hành ân xá hay
đại xá cho những tù nhân có hạnh kiểm tốt, chứ không phải là do Tổng Thống ký
sắc lệnh. Chính vì thế có những tù nhân nào có hạnh kiểm tốt, có tên trong danh
sách ân xá, tạm thời được đưa đến những ngôi nhà tại ngoại của chính quyền, gọi
la Half Way House, có người cung cấp phương tiện di chuyển cho tù nhân đi làm
việc ban ngày và buổi chiều làm việc xong, lại được đưa trở về căn nhà tạm thời
tại ngoại này, trước khi được phép chính thức thả về nhà riêng của mình, để
sống cuộc đời bình thường như khi xưa.Tóm lại, đa số những tù nhân Á Châu nào
có hạnh kiểm tốt, thường có tên nằm trong danh sách được đề nghị lên Thống Đốc,
để được cứu xét cho hưởng đặc ân xin ân xá hay đại xá mỗi năm một lần.
Thụy
Vi: Thưa Thầy, thường thì theo Thầy thấy tội nào hay xảy ra nhiều nhất cho những
can phạm người Việt Nam
và nguyên nhân tại sao ?
Thầy
San: À ! Đúng rồi, bây giờ bước sang riêng vấn đề tù nhân Việt Nam, tội phạm mà
hồi xưa cách đây độ khoảng 20 năm, do tụi băng đảng đi cướp của giết người tại
những thành phố có đông dân cư người Việt sinh sống, gồm những thanh thiếu niên
trẻ tuổi từ 16 cho đến 21tuổi, thanh toán nhau vì ghen tức, ăn chia không đều
và đa số anh em trong băng đảng đều bị nghiện ngập cần sa ma túy, đi trộm cướp,
giết người lấy tiền, lấy súng bắn cả nhân viên công lực v.v...Đấy là những tội
phạm cách đây 20 năm. Nhưng mà bây giờ, những loại tội đó gần như chỉ còn sót lại
1 phần 10 hay là 2 phần10 ở những thành phố đông dân cư người Việt Nam mà thôi,
còn ngoài ra bây giờ thì đa số nói riêng ở Oklahoma, thì những tội do người
Việt Nam hay phạm nhiều nhất và nói một cách tế nhị là tội làm giầu mau, trong
tội làm giầu mau này gồm đủ mọi thành phần: lớn tuổi cũng có, trung tuổi cũng
có, mà trẻ tuổi cũng có, đó là tội bán thuốc lúc lắc, còn gọi là thuốc kích
thích tình dục (Estercy) hoặc bán cần sa ma túy. Bán những loại này kiếm được
nhiều tiền vì có nhiều người mua. Thế còn loại tội thứ hai thuộc thành phần
trung tuổi cho đến cao niên, thường phạm vào tội bạo hành trong gia đình
(Domestic Violence), như là đánh vợ đánh con. Giới trẻ tuổi ít phạm loại tội
này vì họ được giáo dục ở Mỹ hoặc sinh ra tại Mỹ, nên họ hiểu biết pháp luật
Hoa Kỳ và dễ dàng hội nhập vào đời sống văn hóa của người Mỹ, cho nên vấn đề đánh
vợ đánh con ít thấy xẩy ra trong giới trẻ này; trái lại cỡ trung tuổi trở lên,
những thành phần này quen với đời sống từ Việt Nam, vẫn còn muốn duy trì lối
sống chồng chúa vợ tôi từ hồi còn ở quê nhà, thành ra đôi khi trong cơn tức
giận, đánh vợ đánh con và bị hàng xóm trông thấy, báo cho cảnh sát đến can
thiệp hoặc người thân trong nhà gọi 911 xin được cấp cứu. Sau đây Thầy xin kể
lại cho Thụy Vi nghe một trường hợp xảy ra, có một ông chồng bị bắt giam vì phạm
tội đánh vợ, nhưng mà ông ấy nhất định cãi lại là ông không hề đánh vợ, mà ông
chỉ có tát vợ thôi, có gây ra thương tích nào đâu? Còn nếu nói là ông đánh, thì
phải cầm một vật gì để đánh, chứ tát chỉ vì trong một giây phút tức giận, lấy
tay tát vào má, hành động này xẩy ra thường xuyên trong gia đình ở Việt Nam . Đây là
những lời tự bào chữa của ông nói với Công Tống Viên (District Attorney) và vị
luật sư Công Tố Viên giải thích cho ông rằng: Đối với người Mỹ hành động tát
vào má bằng tay hay hành động đánh người khác bằng một khí cụ, đều có ý nghĩa như
nhau, nhất là tát trúng vào mắt có thể làm mù con mắt hay tát trúng vào giây
thần kinh ở mang tai, có thể làm đứt mạch máu não, hơn thế nữa hành động chủ ý đụng
mạnh vào bất cứ chỗ nào trên thân thể của người khác, dù không gây ra thương
tích, cũng là trái với pháp luật Hoa Kỳ rồi, nhất là có hành động chủ ý đụng
vào đàn bà con nít, thì tội còn nặng hơn nhiều, ngay cả dùng những lời đe dọa,
chửi mắng vợ con, làm cho vợ con mất tinh thần, nếu có sự tố cáo với chính
quyền, thì đương sự có thể bị truy tố trước pháp luật về tội lạm dụng vợ con
(Child abuse and spouse abuse). Nếu phạm tội bạo hành trong gia đình, hăm dọa
với khí cụ nguy hiểm đang cầm trong tay, như súng ống, dao kéo hay những vật
dụng nhọn bén, đều có thể bị ngồi tù trong nhiều năm. Một số ít người Việt ở
Oklahoma bị bắt giam về tội bạo hành trong gia đình, thường chỉ là những lời
hăm dọa đòi giết vợ hay những hành động tát vợ hay đánh con và nếu là lần đầu
thì chỉ lãnh án tù treo mà thôi.
Thụy
Vi: Dạ vâng, không riêng gì ở Oklahoma, Thầy ơi, có lẽ nhất là những người có
tuổi chút xíu, thì quen thói chồng chúa vợ tôi và trong lúc tức giận, tát vợ
mấy cái, thì chuyện đó cũng bình thường bên Việt Nam, chính quyền có biết cũng
không làm gì, mà lối xóm cũng nghĩ là hành động đó có hơi dữ dằn một chút thôi,
chắc cũng chẳng sao đâu. Nhưng mà qua tới đây thì nó trở thành một vấn đề trái
với pháp luật Thầy hả?
Thầy San: Đúng thế ! Nhưng câu chuyện ông chồng tát vợ mà Thầy vừa mới
kể lại cho Thụy Vi nghe ở trên đây, không phải vì hành động tát vợ mà bị bỏ vào
tù đâu, mà do chính những lời nói của ông chồng, bảo đứa con dịch lại cho người
cảnh sát hiểu, đây không phải lần đầu tiên tao tát Mẹ mày, mà tao tát Mẹ mày đã
nhiều lần rồi. Người cảnh sát vừa nghe tới đây, liền còng hai tay ông này lại
vì cho ông là người chồng rất nguy hiểm cho vợ ông trong tương lai. Nếu ông
đừng nói những câu này ra cho cảnh sát nghe, mà ông chỉ cần nói là vợ chồng
chúng tôi mới cãi lộn nhau, nhưng chúng tôi đã hòa giải với nhau rồi, thì chắc
chắn 100% người cảnh sát sẽ tự động bỏ ra về. Ông chồng này có ngờ đâu mình nói
sự thật, để chứng tỏ rằng ta đây là kẻ anh hung, không nể sợ ai hết, ai ngờ nói
như thế, đúng là lạy ông tôi ở bụi này trước mặt nhân viên công lực, nên bị còng
hai tay ngay tức khắc để vào nằm nghỉ mát một thời gian trong tù, chờ ngày ra nghe
tòa xét xử về tội đánh vợ và cuối cùng ông đã lãnh bản án 2 năm tù treo và bị câu
lưu mất 5 tuần lễ trong trại giam.
** 4 **
Thụy
Vi: Dạ thưa chào Thầy Phó tế Nguyễn Mạnh San ạ !
Thầy
San: Xin chào Thụy Vi và xin chào Khán Thính Giả của Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải
Ngoại tại Washington DC !
Thụy
Vi: Dạ, thưa Thầy, được biết Thầy có kinh nghiệm 32 năm phục vụ tại tòa án Liên
Bang Hoa Kỳ và từ năm 2003 đến nay, Thầy đã chính thức đảm trách chức vụ Tuyên
úy trại tù, được quyền thăm viếng tất cả các trại tù liên bang trên toàn lãnh
thổ Hoa Kỳ. Đây là một kinh nghiệm, rất quý và hiếm có cho 1 người Việt Nam tị
nạn. Thưa Thầy, Thầy có thể cho Quý Thính Giả biết toàn thể nước Mỹ, có bao
nhiêu Tuyên Úy trại tù được quyền thăm viếng tất cả các trại tù liên bang trên
nước Mỹ nói chung, và nói riêng có bao nhiêu người Việt Nam được tuyển chọn làm
Tuyên Úy trại tù giống như Thầy?
Thầy
San: Vâng, để trả lời câu hỏi rằng có bao nhiêu Tuyên úy trại tù được quyền viếng
thăm các trại tù liên bang trên nước Mỹ nói chung và nói riêng là có bao nhiêu
người Việt Nam được tuyển chọn làm Tuyên Úy trại tù như Thầy, thì Thầy không có
con số chính xác nào về vấn đề này. Tuy nhiên Thầy có thể cho Thụy Vi biết, là
phỏng chừng mỗi một tiểu bang thường có ít nhất từ 3 cho đến 5 trại tù của tiểu
bang, còn từ 1 cho đến 2 trại tù của liên bang. Và mỗi một trại tù của liên
bang thì ít nhất phải có 1 vị Tuyên Úy chính thức và vị Tuyên Úy đó không nhất
thiết phải là công giáo hay là tin lành, hay bất cứ đạo nào khác, mà tất cả các
vị Tuyên Úy đó thì 99% đã được thụ phong Linh Mục, Mục Sư hay Phó Tế Vĩnh Viễn
(Permanet Deacon). Ví dụ: Vị mục sư Tin Lành thì phải được thụ phong chức mục
sư bởi Hội Thánh Tin Lành thuộc giáo phái riêng của mình, còn về phía các linh
mục, các phó tế như Thầy, cũng phải được thụ phong bởi Hội Thánh Công Giáo hoàn
vũ, thì mới được tuyển chọn vào làm Tuyên Úy trại tù. Mỗi một trại tù như vậy
thì có 1 Tuyên Úy chính thức và Tuyên Úy chính thức đó làm việc full time trong
trại tù, được hưởng đầy đủ các quyền lợi cá nhân y như một nhân viên công thức
ở ngoài đời, gồm có bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm tai nạn thương tích, bảo hiểm tuổi
thọ sau khi qua đời v.v.. và khi về hưu cũng lãnh tiền hưu trí của trại tù,
cộng thêm với tiền an ninh xã hội hàng tháng như mọi công dân đã làm việc đủ 10
năm trở lên.
Thế
thì, đấy là vấn đề khái quát về các trại tù liên bang cũng như là tiểu bang. Còn
nếu hỏi rằng có bao nhiêu vị Tuyên Úy
Việt Nam được quyền thăm viếng trại tù liên bang và tiểu bang, thì như Thầy đã
giải thích ở phần trên đây, là mỗi một tiểu bang đều có nhiều các vị Tuyên úy
phục vụ trong các trại tù, nhưng mà nói riêng về phía Công Giáo, thì cứ nhà thờ
nào ở gần trại tù đó, thì Linh Mục Chánh Xứ ở Nhà Thờ đó sẽ phải kiêm nhiệm vai
trò như là một Tuyên Úy trại tù, nhưng mà không nhất thiết là phải giống như là
những vị Tuyên Úy trại tù chuyên nghiệp. Hiện tại các trại tù liên bang trên
đất Mỹ này, theo Thầy biết, thì chỉ có 2 người Việt Nam duy nhất được huấn
luyện và tốt nghiệp làm Tuyên Úy trại tù liên bang, đó là linh mục Bùi Phong ở
tiểu bang Louisiana và Thầy ở tiểu bang Oklahoma, hai người đều tốt nghiệp cùng
Khóa Đào Tạo Tân Tuyên Úy Trại Tù Liên Bang và một khi đã là Tuyên Úy trại tù
liên bang rồi, thì rất dễ dàng được phép đi thăm viếng các trại tù tiểu bang. Tuy
nhiên nếu là Tuyên Úy trại tù tiểu bang, muốn đi thăm trại tù liên bang thì
cũng dễ dàng, nhưng cần phải nạp đơn xin phép đặc biệt trước và đó là những dữ
kiện để trả lời câu hỏi thứ nhất của Thụy Vi hỏi Thầy.
Phó
Tế Nguyễn Mạnh San (hàng ghế đầu từ trái sang phải, ngồi hàng thứ tư) tốt
nghiệp Khóa Huấn Luyện Tân Tuyên Úy cho các Trại Tù Liên Bang Hoa Kỳ tại tiểu
bang Corolado ngày 18-09-1998
Thụy
Vi: Như vậy, theo như Thầy nói toàn thể
nước Mỹ chỉ có 2 vị Tuyên Úy Việt Nam, được quyền tiếp xúc với tù nhân trong
các trại tù tiểu bang cũng như các trại tù liên bang, thì điều này quả thật là
một vinh hạnh cho cộng đồng người Việt chúng ta và đây cũng là một điều rất an
ủi cho những can phạm Việt Nam, vì có được 2 vị Tuyên Úy có cùng ngôn ngữ, để họ
có thể giải bày những niềm uẩn khúc khó khăn hoặc hối hận về những hành động vi
phạm pháp luật của họ, thì quả là một điều quý báu phải không Thầy?
Thầy
San: Đúng vậy, cũng cần phải giải thích thêm cho Thụy Vi biết rằng, tuy nhiên trong
2 vị Tuyên Úy là Cha Bùi Phong và Thầy, nhưng
có sự khác biệt giữa Cha và Thầy, mặc dầu cả 2 người đều tốt nghiệp khóa đào
tạo Tuyên Úy trại tù liên bang cùng chung một một khóa học, và được chính thức
trở thành Tuyên Úy Trại Tù Liên Bang (Federal Prison Chaplains), nhưng Cha Bùi
Phong làm việc full time trong trại tù và lãnh lương của chính phủ liên bang, được
hưởng tất cả các quyền lợi (all benefits) như những công chức liên bang và ngài
không còn liên hệ trực tiếp với Nhà Thờ hay Giáo Phận trước kia của Ngài, Ngài
chỉ cử hành Thánh Lễ, giải tội cho những tù nhân và giúp đỡ tinh thần cho tù
nhân. Trái lại, Thầy vẫn phải làm công việc tại Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, nhưng
cũng được hưởng tất cả các quyền lợi của một công chức lien bang nhu Cha Bùi
Phong. Còn Thầy nhận lãnh chức vụ Tuyên Úy trại tù liên bang và tiểu bang, là
hoàn toàn tình nguyện, không lãnh lương và Thầy chỉ vào thăm tù nhân vào những
ngày cuối tuần, Thứ Bẩy và Chủ Nhật, thay vì nếu muốn lãnh lương fulltime của
trại tù, thì Thầy phải làm việc 8 tiếng mỗi ngày như Cha Bùi Phong đang làm.
Thụy
Vi: Dạ vâng ! Còn như Thầy chỉ là 1 người tình nguyện, nhưng mà những thời gian
tình nguyện của Thầy vào Thứ Bẩy và Chủ Nhật cũng khá nhiều đó Thầy !
Thầy
San: Khá nhiều thì cũng đúng, thế nhưng mà Thầy nhận được nhiều niềm an ủi tinh
thần từ các tù nhân rất quý mến Thầy. Do đó đã thúc đẩy Thầy hăng say trong các
công tác mục vụ tù nhân, từ cấp liên bang xuống tới cấp tiểu bang, lien tục từ
hơn 18 năm qua cho đến nay đã gần 19 năm rồi.
Thụy
Vi: Dạ, chắc chắn thì nó phải có cái động lực nào đó, để Thầy có thể bỏ ra
nhiều thời gian mà không thấy mệt mỏi và với những kinh nghiệm mục vụ tù nhân
của Thầy, một chút nữa đây, Thụy Vi sẽ xin được phép đi sâu vào vấn đề này. Dạ
thưa Thầy, hầu hết có lẽ là người Việt Nam chúng ta cũng không có rành,
không có biết nhiều về cái hệ thống tổ chức trại giam của Hoa Kỳ nó như thế nào?
Thầy đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn
đề này, Thầy có thể cho Quý thính giả biết sơ qua khái niệm tổng quát về trại tù,
đã được tổ chức như thế nào không ạ ?
Thầy
San: Dạ vâng, thứ nhất là trại tù liên bang thì hơi khác với trại tù tiểu bang
một chút, trại tù liên bang chỉ có từ cấp an ninh trung bình (Medium security) lên
đến cấp an ninh tối đa (maximum security), còn tiểu bang có tới 3 cấp an ninh: Cấp
an ninh tối thiểu (minimum security), cấp an ninh trung bình (medium security)
và cấp an ninh tối đa (maximum security), cấp an ninh tối đa này là họ giam
những người lãnh án chung thân và những người lãnh án tử hình. Nói tóm lại
trong hệ thống tổ chức các trại tù có 3 cấp: Cấp an ninh tối thiểu, cấp an ninh
trung bình và cấp an ninh tối đa và hầu hết
các tiểu bang đều có hệ thống tổ chức trại tù tương tự giống nhau. Thành
phố nào cũng có trại tạm giam gọi là Jail, nhưng người Việt Nam vẫn quen gọi
là trại tù (prison). Người Mỹ phân biệt trại tạm giam là nơi giam giữ những
người chờ ngày ra tòa án xét xử, sau khi tòa tuyên án rồi, lúc đó tội nhân mới
được giải giao đến trại tù, gọi là prison, theo thứ tự từng cấp an ninh như vừa
nói trên đây. Vậy nói tóm lại là những
người mà bị bắt vào trong tù, đầu tiên thì bị nhốt trong các trại tạm giam của
thành phố ((City jail), nếu can phạm có bằng chứng (Evidence) phạm tội, thì sẽ
được chuyển đến trại tạm giam của quân hạt (County jail) để chờ đợi ngày ra tòa
xét xử; còn nếu không có chứng cớ để buộc tội nghi can (Suspect), thì đương sự
chỉ bị giam giữ lâu tối đa tới 3 ngày ở trong trại tạm giam thành phố, hoặc tại
trạm tạm giam quận hạt, là phải trả lại sự do cho đương sự. Trong trường hợp
trại tạm giam thành phố không còn chỗ trống, thì nghi can sẽ được giam giữ ở
trại tạm giam quận hạt.
Thụy
Vi: Dạ, vâng cám ơn Thầy đã cắt nghĩa rất là rõ ràng. Thông thường trong suốt
thời gian pham nhân bị giam giữ ở trong trại tạm giam, thì khi nào các thân
nhân có quyền vào thăm đương sự hoặc khi nào người luật sư riêng của phạm nhân
có quyền được vào thăm đương sự? Và riêng đối với những vị Tuyên Úy trại tù
cũng vào thăm phạm nhân, nhưng mà giữa sự thăm viếng của thân nhân, của luật sư
và của Tuyên Úy có khác biệt nhau hay không? Nếu có, thì sẽ khác biệt nhau như
thế nào hở Thầy?
Thầy
San: Vâng, thứ nhất là thân nhân muốn vào thăm tù nhân ở trong trại tạm giam,
thì thân nhân chỉ được trông thấy mặt
nhau qua cửa kính, rồi hai bên nói
chuyện với nhau qua ống điện thoại và chỉ được quyền nói chuyện với nhau 15
phút hoặc tối đa 30 phút, nhưng thông thường chỉ được phép nói chuyện 15 phút
thôi, và mỗi tuần lễ thân nhân chỉ được phép thăm viếng tù nhân 1 lần. Còn nếu
mà tù nhân bị giam ở trong các trại tù bình thường sau khi đã lãnh án tù ở rồi,
thì thân nhân được quyền gặp trực tiếp giáp mặt nhau, nhưng mà đấy là những
trại tù thuộc loại an ninh tối thiểu (Minimum security) hoặc an ninh trung bình
(Medium security) thôi và được phép đem đồ ăn vào cho tù nhân, rồi có khi được
phép ở cả ngày ngồi nói chuyện với nhau. Thế còn trại tù thuộc loại an ninh tối
đa (Maximum security) thì thân nhân thăm viếng không được quyền gặp mặt tù nhân
trực tiếp, mà chỉ trông thấy mặt nhau qua cửa kính hoặc trông thấy nhau trên màn
ảnh truyền hình và vẫn nghe được tiếng nói chuyện của nhau, mà không cần phải cầm
ống điện thoại. Còn luật sư muốn vào gặp tù nhân là thân chủ của mình vào ngày
nào hay giờ nào cũng được, nhưng có 2 cách gặp tù nhân tùy theo ý muốn của luật
sư : Một là họ không muốn gặp mặt tù nhân trực tiếp (face to face), thì họ vẫn
có thể nói chuyện với thân chủ của họ qua cửa kính, còn nếu nhận thấy tội nhân không
có gì nguy hiểm cho họ, thì họ vẫn có quyền gặp giáp mặt, để họ nói chuyện trực tiếp với thân chủ của họ;
thế còn các vị Tuyên Úy của trại tù thì cũng vậy, muốn gặp tù nhân lúc nào cũng
được và gặp trực tiếp (face to face). Nhưng có một điều khác biệt, nếu mà ở
trại tạm giam, thì vị Tuyên Úy chỉ được quyền gặp mặt từng tù nhân một, chứ
không được gặp nhiều tù nhân cùng một lúc, nhưng mà nếu ở trong trại tù thuộc
loại an ninh tối thiểu hay an ninh trung bình, thì vị Tuyên Úy có thể gặp nhiều
nhiều tù nhân cùng một lúc, từ 1 chục, lên đến 2 hay 3 chục người, có khi hàng
trăm người vào trong một Nhà Nguyện
(Chapel) của trại tù, để nói chuyện và giảng thuyết Kinh Thánh cho tù nhân nghe,
tùy theo tôn giáo của các tù nhân và nếu họ là tín đồ Công Giáo, thì đôi khi có
cử hành Thánh Lễ trong Nhà Nguyện, nhưng không nhất thiết đòi hỏi họ phải xưng
tội trước đã mới được rước Mình Thánh Chúa (Holy Communion), mà trong tình
trạng bị tù tội như thế này, dù cho họ
có phạm tội trọng đi chăng nữa, họ vẫn được phép rước Mình Thánh Chúa, rồi chờ
khi nào có thời gian thuận tiện họ sẽ xưng tội sau. Đó là những sự khác biệt
giữa những người thân nhân, luật sư và các vị Tuyên úy đến thăm viếng tù nhân,
để trả lời câu hỏi trên đây của Thụy Vi.
Thụy
Vi: Thưa Thầy, giống như Thầy nói hồi nãy là Tuyên Úy thì có đặc quyền có thể
gặp một nhóm người, khoảng vài ba chục người cũng có thể được, nhưng mà thưa
Thầy như vậy người ta không sợ khi mà gặp đông người như vậy, các tội nhân có
thể làm loạn gây hỗn loạn trong trại tù thì sao?
Thầy
San: Đúng như vậy, như Thầy đã nói lúc đầu, trại tù đã được phân chia ra làm 3
loại: Loại an ninh tối thiểu (Minimum security), an ninh trung bình (Medium
security) và an ninh tối đa (Maximum security). Nếu muốn tập họp nhiều người cùng
một lúc, thì chỉ được phép làm ở những trại tù loại an ninh tối thiểu và an
ninh trung bình mà thôi, vì những tù nhân này được đánh giá là không thuộc hạng
người chống đối hay không gây nguy hại
cho vấn đề an ninh trại tù. Trái lại không được phép tập trung tù nhân ở nhưng
trại tù an ninh tối đa, đúng như Thụy Vi lo sợ là tù nhân có thể lợi dụng tình
thế có đông người, rồi thừa cơ hội nổi loạn.
Thụy
Vi: Dạ vâng, như vậy Thầy nói rất là rõ, hồi nãy Thụy Vi cũng đang lo Thầy gặp
đông quá không biết có sao không ?
Thầy
San: Đúng rồi, có thể tù nhân bắt mình làm con tin không chừng, thành ra tù
nhân được phân chia ra làm 3 loại khác nhau, loại cấp an ninh tối thiểu, an
ninh trung cấp, an ninh tối đa, để nhận định xem loại tù nhân nào ít nguy hiểm
hơn, loại tù nhân nào nguy hiểm nhiều hơn và loại tù nhân nào nhiều nguy hiểm
nhất, để khi hữu sự, những nhân viên giữ an ninh trong trại tù sẽ biết cách đối
phó khi có cuộc nổi loạn xẩy ra.
Thụy
Vi: Dạ thưa Thầy, một câu hỏi kế tiếp, xin hỏi Thầy là thành phần tội phạm qua kinh
nghiệm giao tiếp của Thầy với tù nhân, thì Thầy nhận biết hầu hết các tù nhân thuộc những
thành phần nào trong xã hội? Ở lứa tuổi nào? Và tù nhân thuộc chủng tộc nào
nhiều nhất?
Thầy
San: Để trả lời câu hỏi này của Thụy Vi,
không nói riêng về tù nhân Việt Nam, nói chung tù nhân Mỹ cùng với tất cả các
tù nhân của một số các quốc gia khác, thì thành phần tù nhân ở mọi lứa tuổi và
gồm đủ loại tội phạm, nhưng mà riêng người Á Châu thì chúng ta nên biết tội
phạm nào hay xảy ra nhất. Đa số những tội nhân ở tuổi trung bình là từ 60 trở
xuống cho đến 40 tuổi, thì chiếm khoảng 30%,
còn từ dưới 40 xuống cho đến 18 tuổi thì chiếm khoảng 70%. Nên biết những
thanh thiếu niên dưới 18 tuổi phạm tội, thì được giam giữ riêng biệt nơi khác,
gọi là trại giam thanh thiếu niên (Juvenile Detention Center), chứ không bị
giam chung với các tù nhân trong trại tù bình thường này. Vậy tội phạm thanh thiếu
niên không nằm trong 30% và 70% như vừa
đề cập trên đây và đó là tỷ lệ phần trăm được phỏng đoán nói chung về tuổi tác và
các tội phạm. Nhưng nói riêng về tội nhân từ 18 tuổi trở lên cho đến 40, thì chiếm
khoảng 60%, từ trên 40 tuổi trở lên đến 60 tuổi chiếm 30%, số còn lại trên 60
tuổi trở lên là 10% . Những thành phần tội nhân thì phỏng chừng là như vậy, còn
nói về các loại tội phạm, thì nào là hiếp dâm, giết người, biển thủ v.v…Tất cả
cái tội phạm này đều xẩy ra ở những trường hợp khác nhau, mục đích khác nhau,
cũng như các tội khác cũng thế, ngoại trừ những tội như là say rượu lái xe
(DUI), lái xe không có bằng lái hoặc bằng lái bị tịch thu nhưng vẫn cứ lái xe. Những
loại tội phạm này, Thầy không có tính vào đây, mà Thầy chỉ tính những tội hình
sự (Criminal) hoặc tội đại hình (Felony) mà thôi.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.