1. Dạy tiếng Mỹ ở đảo
Khoảng cuối năm tám mươi khi lên được đảo Galang tôi bắt đầu mở lớp dạy Anh văn liền cho người đi chung chuyến mình. “Lớp học” lúc đầu là căn trống phiá dưới một barrack với tấm ván tường làm bảng viết. “Học sinh” có kẻ bồng người ẵm con ngồi bệt trên nên xi măng chăm chú học bài. Nỗi mừng tới được đảo và lòng hy vọng được đi định cư tràn trề làm mọi người, cả thầy lẫn trò, hăng hái trong việc dạy và việc học hành.
Sau đó tôi được mời dạy cho chùa và một số hội đoàn trên đảo. Có nơi số người học thật đông gây cho tôi thật nhiều hứng khởi. Ngoài ra vì không có thân nhân ở ngoại quốc trợ giúp tiền bạc, tôi còn nhận dạy tư cho nhóm và cho cá nhân để kiếm tiền sinh sống trong thời gian dài hơn ba năm ở đảo. Chưa lúc nào tôi thấy mình giúp ích được cho những người đồng cảnh ngộ với mình như trong thời gian này. Đi đâu cũng được mọi người thân mến gọi bằng “thầy” làm tôi được vô cùng mãn nguyện.
Những nhóm dạy tư thường là ở một phòng bào đó trong barrack, chừng năm ba người tụ lại với nhau để học trong hai hay ba tiếng đồng hồ, vài ba ngày trong tuần. Sách học thì gởi mua hay người này mua lại của người đã đi. Lớp học chú trọng vào loại Anh ngữ đàm thoại, ít nặng về văn phạm nhưng chú trọng về phần đàm thoại thực hành. Vào thời điểm có lệnh của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên hiệp Quốc đóng cửa các trại tỵ nạn khoảng cuốn năm 1989, làn sóng người vượt biển bỗng dâng cao. Ngày nào cũng có vài ba chiếc tàu vượt biển được nhận vào trại. Theo đà nhân số vượt biển tăng, Galang 1 trước đây hoang tàn, bỏ phế bỗng trổi mình sống lại. Từ Galang 2 trở ra Galang 1, lều trại bỗng đầy nghẹt người tị nạn cuối mùa, sô người học Anh ngữ tăng theo cấp số nhân. Một trong những kỷ niệm dạy tiếng Anh ở đảo mà tôi nhớ mãi đến giờ là anh học trò tên Thông.
Khoảng cuối năm tám mươi khi lên được đảo Galang tôi bắt đầu mở lớp dạy Anh văn liền cho người đi chung chuyến mình. “Lớp học” lúc đầu là căn trống phiá dưới một barrack với tấm ván tường làm bảng viết. “Học sinh” có kẻ bồng người ẵm con ngồi bệt trên nên xi măng chăm chú học bài. Nỗi mừng tới được đảo và lòng hy vọng được đi định cư tràn trề làm mọi người, cả thầy lẫn trò, hăng hái trong việc dạy và việc học hành.
Sau đó tôi được mời dạy cho chùa và một số hội đoàn trên đảo. Có nơi số người học thật đông gây cho tôi thật nhiều hứng khởi. Ngoài ra vì không có thân nhân ở ngoại quốc trợ giúp tiền bạc, tôi còn nhận dạy tư cho nhóm và cho cá nhân để kiếm tiền sinh sống trong thời gian dài hơn ba năm ở đảo. Chưa lúc nào tôi thấy mình giúp ích được cho những người đồng cảnh ngộ với mình như trong thời gian này. Đi đâu cũng được mọi người thân mến gọi bằng “thầy” làm tôi được vô cùng mãn nguyện.
Những nhóm dạy tư thường là ở một phòng bào đó trong barrack, chừng năm ba người tụ lại với nhau để học trong hai hay ba tiếng đồng hồ, vài ba ngày trong tuần. Sách học thì gởi mua hay người này mua lại của người đã đi. Lớp học chú trọng vào loại Anh ngữ đàm thoại, ít nặng về văn phạm nhưng chú trọng về phần đàm thoại thực hành. Vào thời điểm có lệnh của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên hiệp Quốc đóng cửa các trại tỵ nạn khoảng cuốn năm 1989, làn sóng người vượt biển bỗng dâng cao. Ngày nào cũng có vài ba chiếc tàu vượt biển được nhận vào trại. Theo đà nhân số vượt biển tăng, Galang 1 trước đây hoang tàn, bỏ phế bỗng trổi mình sống lại. Từ Galang 2 trở ra Galang 1, lều trại bỗng đầy nghẹt người tị nạn cuối mùa, sô người học Anh ngữ tăng theo cấp số nhân. Một trong những kỷ niệm dạy tiếng Anh ở đảo mà tôi nhớ mãi đến giờ là anh học trò tên Thông.
Thông lúc đó trên dưới ba mươi, sống chung với người bạn gái, người này có con riêng và người em, coi như một gia đình. Thông có được đức tính siêng năng và tinh thần trọng sư đáng qúy. Để kiếm thêm nguồn thu nhập cho gia đình, Thông vào mé rừng Galang 2 để xây một lò làm bún nhỏ cung cấp cho các tiệm ăn trên đảo. Thức khuya dậy sớm để ra mẻ bún, xong rồi Thông đội thúng bún đi giao hàng, còn dư lại thì để gia đình ăn. Thông thường biếu cho tôi bún để tỏ lòng kính mến. Quần quật, đầu tắt mặt tối như vậy mà tối đến Thông vẫn đến barrack tôi để học.
Con đường thương mại phồn thịnh có thể gọi là “Lê Thánh Tôn - Galang 2” thì có điện do các chủ tiệm mua nhưng các barracks ở thì chỉ có ánh sang nhờ đền dầu thôi. Vậy mà dưới ánh đèn dầu mù mù, Thông siêng năng, chuyên cần học với tôi cho đến lúc Thông và gia đình đi định cư ở
Tôi tiếp tục dạy tiếng Anh nhiều chỗ, nhiều nơi, cho những ai có nhu cầu để kiếm sống cho đến ngày rời đảo đi định cư.
2. Dạy tiếng Việt ở Mỹ
Qua Mỹ, với sự giúp đỡ tận tình của người bạn trẻ là Nhân, tôi lại được cắp sách đền trường. Mỗi ngày hai anh em, Nhân chở tôi trên chiếc xe pickup hiệu Mazda màu đỏ để đi học tại trường đại học cộng đồng. Cuối tuần thì hai anh em đi làm cỏ để kiếm tiền trả tiền mướn phòng và chi tiêu vặt.
Sau khi ra trường tôi vào làm ở trường dạy cho trẻ em người Da đỏ nhưng vẫn liên lạc thường xuyên với trường cũ. Một ngày nọ, khoảng vào năm 2000, tôi đọc được một thông báo của trường tìm người dạy tiếng Việt cho học sinh lớn tuổi người Mỹ học vì nhu cầu giao tiếp và thương mại., tôi nộp đơn ngay để được phỏng vấn.
Vì là cựu sinh viên của trường và đã có bằng bốn năm nên tôi được nhận. Lớp khoảng bảy người lớn, đủ thành phần. Mỗi tuần hai buổi tối mỗi tối hai tiếng đồng hồ. Tôi cũng áp dụng lối dạy đàm thoại với những đề tài thực tế sát với đời sống hằng ngày. Tôi cũng đem những băng hình về văn hoá và xã hội, âm nhạc Việt để tạo hào hứng cho lớp học. Lớp học kéo dài được ba tháng rồi ngưng.
Hình minh họa
Tôi cũng có dạy một lớp Viện ngữ cho người Mỹ lớn tuổi với tính cách tự nguyện cho trường Việt ngữ Hùng Vương ở
Khi dạy tiếng Việt cho người Mỹ, cái khó nhất là phần phát âm vì âm Việt có năm dấu mà hầu như âm Mỹ không có. Hầu hết học viên Mỹ đều không phát âm đứng được từ có dấu nặng. Lớp học vui vẻ và hào hứng nhờ đề tài tôi chọn ra từ các đề tài có tính cách va chạm trong cuộc sống hằng ngày.
Ngoài ra tôi còn phụ trách lớp dạy Việt ngữ cho các em nhỏ lớn lên tại Mỹ cũng ở trường Việt ngữ Hùng Vương mỗi tối thứ Sáu. Trở ngại của các em vẫn là phần phát âm tiếng Việt không được đúng vì lớn lên tại Mỹ. Trong khi dạy ở trường Hùng Vương, tôi được biết chị Dung, một giáo viên đầy nhiệt tâm và tận tụy với các em trong việc dạy muá hát dân vũ và nhạc Việt lâu năm tại trường. Đoàn vũ nhà trường do chị, đào luyện hướng dẫn công phu thường được mời đi trình diển trong các lẽ hội trong quận. Chị xứng đáng là một giáo viên có công to lớn trong việc giữ gìn văn hoá và bảo tồn tiếng Việt ở nước ngoài.
Tôi thấy mình mãn nguyện khi dạy tiếng Mỹ cho người đồng cảnh ở đảo và phổ biến tiếng Việt khi ở xứ này. Mỗi khi được nghe tiếng gọi “thầy” nơi các học viên tôi cảm thấy mình đã làm được một cái gì đó, dù nhỏ nhưng được mọi người chấp nhận với lòng quí mến. Như vậy là tôi đã không uổng công sống chết vượt biển và phụ lòng kỳ vọng của ba má tôi khi hai người còn sinh tiền.
3. Chỉ có chút này
Cứ mỗi lần chạy qua ngã tư trên đường xuống phố tôi đều thấy người đàn ông homeless ngồi đó. Ngay phía trước sân cỏ tiệm 7/11, kế bên cái vòi nước cứu hỏa ở góc ngã tư đông xe qua lại. Tóc anh ta dài hình như ít khi được gội, bù xù, vàng cháy, xoắn quăng vì nắng và bụi. Kế bên anh là cái ba lô cũ rích và vài thứ gì đó tôi không nhận ra. Đặc biệt là tôi không bao giờ thấy anh vẽ lên tấm bià dầy viết là “ I need help” hay “I need money” (Tôi cần giúp đở, tôi cần tiền). Anh cũng chẳng có con chó ngồi thảm não với mình như những người homeless khác để khêu gợi lòng trắc ẩn của người qua đường. Lần nào tôi có dịp chạy qua ngã tư này đều thấy anh ngồi, nhứt là vào buổi chiều tối, có khi mặt anh đỏ lơ vì bia rượu.
Tôi có quen Mark, anh bạn người Mỹ trẻ làm ở tiệm bán pizza. Mỗi khi còn bánh pizza dư, tiệm thường không bán cho khách hàng vào ngày sau nên Mark được phép đem cho hay bỏ đi tùy ý. Tôi thường đến để xin Mark đem về nhà ăn hay cho bạn bè. Phí bỏ đồ ăn trong thời buổi này khó khăn tôi nghỉ đó là một điều phí phạm không nên. Tôi bỗng nghỉ tới anh homeless. Tại sao mình không đem bánh cho? Chắc anh ta cũng cần.
Nghĩ như vậy tôi quyết định lần này đem bánh theo để lúc nào thấy anh thì đưa. Sáng sớm hôm Chúa nhật vừa rồi tôi chạy ngay ra góc đường xem anh có ngồi đó không. Không thấy anh ở đâu cả!
Không sao mình cứ để bánh trong xe khi nào đi ngang qua thấy anh thì đưa vậy, tôi nghĩ. Sáng Thứ hai hôm sau tôi đi có hẹn đi làm răng chạy ngang qua thì thấy anh ngồi đó! Tôi cua quanh nhanh xe lại đậu vào chỗ đậu xe của một tiệm ăn rồi lấy hộp bánh ra đi bộ tới chỗ anh đang ngồi. Tôi tới từ phía sau lưng anh. Anh quay lại nhìn thấy tôi. Tôi đưa hộp bánh và nói:
- God bless you brother. (Ơn Trên ban phước lành cho anh.)
Anh cầm hộp bánh và nói cảm ơn. Bấy giờ tôi mới nhìn thấy rõ được mặt anh. Tuy bị dạn dầy vì sương gió nhưng khuôn mặt anh trông vẫn còn trẻ và có nét đẹp trai nữa. Tôi đoán là tuổi của anh chưa tới bốn mươi. Nhìn nét mặt anh không biết sao tôi vẫn còn thấy tràn đầy điều hy vọng cho tương lai.
Đưa bánh cho anh xong tôi đi bộ lại xe và lái đi. Đêm đó tôi ngủ một giấc thật ngon.
Này anh bạn homeless của tôi ơi:
Mình chỉ có chút này xin bạn nhận
chẳng là bao nhưng giúp bạn bớt đói lòng
ai trong vận rủi đều đành cuối mặt
mong một ngày nao ở khúc rẽ cuộc đời
bạn sẽ được có ngày ngẩng mặt.
Mình chỉ có chút này xin bạn nhận
chẳng là bao nhưng giúp bạn bớt đói lòng
ai trong vận rủi đều đành cuối mặt
mong một ngày nao ở khúc rẽ cuộc đời
bạn sẽ được có ngày ngẩng mặt.
Trương Tấn Thành
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.