Wednesday, April 8, 2015

Ai là kẻ thù của Việt Nam?

http://baomai.blogspot.com/
Ở Việt Nam lâu nay, giới cầm quyền cũng như giới truyền thông hay nói đến những “thế lực thù địch”. Không ai giải thích rõ, nhưng hầu như mọi người đều biết, với nhóm từ ấy, người ta nhắm đến các quốc gia Tây phương, đặc biệt là Mỹ, trong cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm làm thay đổi chế độ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, chỉ cần bình tĩnh và sáng suốt một tí, người ta sẽ thấy ngay là Mỹ không có lý do gì để trở thành “thù địch” với Việt Nam. Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam (miền Bắc) đã chấm dứt từ 40 năm trước. Cuộc chiến tranh lạnh, nguyên nhân làm bùng nổ chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ, cũng đã chấm dứt cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu thập niên 1990. Với Mỹ, một trong những nguyên tắc nền tảng của mọi chính sách đối ngoại là không có bạn cũng như không có kẻ thù vĩnh viễn. Bạn hay thù tùy thuộc vào lợi ích quốc gia, nghĩa là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Hoàn cảnh hiện nay là Mỹ muốn làm bạn với Việt Nam. Có hai lý do chính: Một, Mỹ muốn tăng cường hợp tác kinh tế với Việt Nam để làm ăn; và hai, Mỹ cần Việt Nam để bảo vệ Biển Đông, một trong những con đường hàng hải tấp nập và quan trọng nhất trên thế giới.

http://baomai.blogspot.com/
Trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ hay nhấn mạnh đến yếu tố nhân quyền như một trong những điều kiện để hợp tác. Điều đó khá dễ hiểu. Một, đó là một trong những nguyên tắc căn bản trong các chính sách ngoại giao của Mỹ: để làm bạn, cả hai nước phải chia sẻ với nhau một bảng giá trị chung. Cốt lõi của bảng giá trị ấy là tôn trọng quyền làm người. Hai, riêng với Việt Nam, Mỹ lại càng cần nêu lên nguyên tắc ấy chủ yếu để đáp ứng lại sự đòi hỏi của một bộ phận khá đông dân chúng Mỹ. Ở trên, tôi có nói với Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn. Đó là về phía chính phủ. Với dân chúng thì khác. Những người từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam cũng như thân nhân của những người đã từng bị hy sinh tại Việt Nam không dễ gì quên hẳn được quá khứ. Đó là chưa kể cộng đồng người Việt khá đông đảo tại Mỹ. Tất cả đều yêu sách chính phủ Mỹ cần đặt ra những điều kiện nào đó khi muốn đẩy mạnh quá trình hợp tác với Việt Nam. Tuy nhiên, nên lưu ý: nhân quyền là điều kiện nhưng không phải là điều kiện tiên quyết. Trên thực tế, lâu nay, chính phủ Mỹ vẫn hợp tác với khá nhiều chế độ độc tài nếu họ thấy sự hợp tác ấy là cần thiết và có lợi.

Bởi vậy, có thể nói với Việt Nam, Mỹ sẽ không đẩy yêu sách dân chủ hoá trong chừng mực mối quan hệ giữa hai nước tốt đẹp đủ để bảo vệ những lợi ích chung. Cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” của Mỹ, nếu có, chỉ có một ý nghĩa rất tương đối trong cái gọi là chủ nghĩa thực tiễn (realism) của những nhà hoạch định chính sách tại Mỹ. Đó là chưa kể, để bảo vệ các lợi ích của họ, điều Mỹ cần nhất ở Việt Nam là sự ổn định về chính trị. Điều đó lại cũng dễ hiểu. Không ai có thể an tâm làm ăn buôn bán cũng như bàn chuyện hợp tác chiến lược ở những nơi thường xuyên thay đổi chính phủ cả. Ở điểm này, chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam rất gần nhau: mọi người đều muốn ổn định dù cái giá để trả cho sự ổn định, về phía dân chúng, là cái ách độc tài nặng trĩu trên lưng của họ.

Nếu Mỹ không phải là lực lượng thù địch của Việt Nam thì là ai?

image
Câu trả lời hầu như ai cũng rõ: Trung Cộng. Chỉ có thể là Trung Cộng. Chứ không có bất cứ ai khác.
Nói đến âm mưu xâm lấn của Trung Cộng, nhiều người nghĩ đến viễn cảnh Trung Cộng tấn công trên đất liền. Tôi nghĩ viễn cảnh ấy sẽ không xảy ra. Trung Cộng không phiêu lưu một cách dại dột như thế. Bởi chọn thế trận như vậy là phải đối diện với cuộc chiến toàn dân của Việt Nam. Có chiếm cũng không giữ được đất. Vả lại, Trung Cộng cũng không cần chiếm Việt Nam khi họ có thể tác động dễ dàng lên guồng máy lãnh đạo Việt Nam để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị của họ.

Cuộc xâm lấn của Trung Cộng chỉ diễn ra trên biển.

image
Nói đến âm mưu xâm chiếm trên biển của Trung Cộng, phần lớn chỉ để ý đến các sự kiện cụ thể như vụ cắt dây cáp ngầm của Việt Nam, việc đem giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, việc cải tạo bãi đá Gạc-Ma hay việc bắt bớ các ngư dân Việt Nam đang đánh cá gần Hoàng Sa hay Trường Sa. Chỉ chú ý đến các sự kiện ấy nên người Việt Nam dễ thấy thỏa mãn khi một số khó khăn đã được giải quyết: dây cáp ngầm được nối, giàn khoan được rút về nước hay những ngư dân bị bắt được thả. Có lẽ nghĩ như thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho là Việt Nam đã “thắng lợi” trong cuộc đương đầu với giàn khoan HD-981 hồi đầu năm ngoái. Thật ra, đó chỉ là những sự kiện lặt vặt. Âm mưu thực sự của Trung Cộng lớn hơn nhiều: làm chủ hơn 90% diện tích Biển Đông của Việt Nam.

Mà Trung Cộng không hề giấu giếm điều đó. Bằng hành động cũng như bằng lời nói, lúc nào họ cũng cho Biển Đông là “sân nhà” của họ, là “lợi ích cốt lõi” mà họ không thể từ bỏ hay nhân nhượng. Có thể hình dung chiến lược xâm lấn Biển Đông của Trung Cộng được bao gồm ba giai đoạn: một, tuyên bố con đường lưỡi bò (hoặc con đường gồm chín khúc); hai, tuyên bố vùng nhận dạng hàng không trên trời tương ứng với con đường lưỡi bò dưới biển; và ba, thực hiện việc kiểm soát ngặt nghèo cả trên trời lẫn dưới biển để bất cứ một chiếc thuyền hay một chiếc máy bay nào đi ngang qua con đường lưỡi bò ấy cũng đều phải xin phép Trung Cộng và chịu sự kiểm tra của Trung Cộng. Xong giai đoạn thứ ba, cuộc xâm lấn của Trung Cộng coi như kết thúc.

image
Khi cuộc xâm lấn ấy kết thúc, nước nào bị thiệt hại nhiều nhất? Câu trả lời rất đơn giản: Việt Nam. Brunei nhiều lần tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa nhưng họ chưa bao giờ thực sự làm chủ bất cứ hòn đảo hay bãi đá nào. Chỉ thực sự làm chủ một số đảo hay bãi đá ở Trường Sa và Hoàng Sa là Philippines, Đài Loan, Malaysia và Việt Nam. Trong số các quốc gia ấy, nước làm chủ nhiều nhất là Việt Nam. Do đó, nếu Biển Đông mất, Việt Nam cũng sẽ là nước bị mất mát nhiều nhất. Hơn nữa, ngoài đảo, còn có vùng biển. Nếu con đường lưỡi bò của Trung Cộng được xác lập chính thức, Việt Nam sẽ mất khoảng 90% chủ quyền trên Biển Đông.

Mất 90% cũng có nghĩa là mất trắng Biển Đông.

image
Tất cả những sự phân tích đều không có gì mới mẻ. Hầu như ai cũng biết trừ… chính quyền Việt Nam.

Tại sao cần phải nêu đích danh kẻ thù?

Cuối bài “Ai là kẻ thù của Việt Nam?”, tôi có viết: Hầu như ai cũng biết cách trả lời cho câu hỏi ấy trừ…chính quyền Việt Nam.
Viết thế, thú thực, tôi cũng thấy có cái gì như nghịch lý. Ông Tổng Bí thư có thể lú lẩn nhưng chả lẽ cả 15 người còn lại trong Bộ Chính trị cũng đều bị mù mắt? Rồi còn gần 200 người trong Ban Chấp hành Trung ương nữa, chả lẽ không có ai nhìn ra sự thật? Nhưng nếu đã thấy sự thật, tại sao người ta vẫn tiếp tục hô những khẩu hiệu lãng nhách như “4 tốt” và “16 chữ vàng” từ năm này sang năm khác? Tại sao người ta vẫn xem Trung Cộng như một đối tác khả tín? Tại sao người ta vẫn buông thả để người Trung Cộng đến, ở và làm việc ở những địa điểm được xem là trọng yếu của quốc gia? Tại sao người ta vẫn im lặng trước những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Cộng ở Hoàng Sa, Trường Sa cũng như trên Biển Đông nói chung?

image
Quan sát hành động cũng như nghe các lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, người ta không thể không nghĩ là họ không hề nhận ra dã tâm của Trung Cộng. Điều đó quả rất đáng ngạc nhiên. Tôi không thể nghĩ ra một lời giải thích nào thật thoả đáng. Họ mê muội đến vậy sao? Hay họ bị mua chuộc? Hay, một cách lạc quan và tích cực hơn, có thể nêu giả thuyết: Họ biết rõ nhưng phải giả vờ không biết vì một toan tính chiến lược nào đó, ví dụ, với hy vọng Trung Cộng sẽ “thức tỉnh” hay các biện pháp thương thảo qua con đường ngoại giao sẽ có kết quả tốt đẹp để Việt Nam vẫn giữ được chủ quyền trên Biển Đông mà không phải đối đầu về quân sự? Tuy nhiên, hy vọng này chỉ là một ảo tưởng: Trung Cộng vẫn khẳng định đi khẳng định lại việc làm bá chủ trên Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” mà họ sẽ không bao giờ nhân nhượng.

Vậy nguyên nhân thực sự là sao? Việt Nam chỉ muốn kết hợp “hợp tác và đấu tranh” như lời Nguyễn Tấn Dũng nói? Nhưng “đấu tranh” trong cái thế vẫn duy trì hợp tác là đấu tranh như thế nào? Đâu là giới hạn của việc hợp tác? Cho đến nay, không có ai trong giới lãnh đạo trả lời câu hỏi ấy cả. Về phương diện tuyên truyền, người ta vẫn cố tô hồng viễn ảnh hợp tác qua các châm ngôn “4 tốt” và “16 chữ vàng” và làm ngơ trước các hành động xâm lấn của Trung Cộng. Người ta cố làm ra vẻ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Cộng vẫn tốt đẹp và sẽ tốt đẹp mãi.

image
Nhưng đó chỉ là một sự lừa dối hoặc tự lừa dối. Cần phải nói rõ: Trong tình hình hiện nay, Trung Cộng là một kẻ thù, hoặc nhẹ nhàng hơn, một đối thủ.
Việc công bố ấy có thể làm cho quan hệ giữa hai nước trở thành căng thẳng hơn. Nhưng để né tránh sự căng thẳng ấy bằng cách im lặng hoặc tự lừa dối, các nguy hiểm sẽ lớn hơn.

Nguy hiểm đầu tiên là nó làm dân chúng và cán bộ các cấp mất cảnh giác trước các thủ đoạn xâm lấn của Trung Cộng. Điều này đã từng xảy ra nhiều lần rồi. Một số vụ từng làm ồn ào dư luận như việc để mặc cho Trung Cộng tha hồ tuyên truyền trên trang mạng của Bộ Thương mại Việt Nam, việc để cho nhiều người Trung Cộng vào làm ăn ở những khu vực được xem là bí mật quốc phòng quanh cảng Cam Ranh hay việc cho Trung Cộng thuê dài hạn đất rừng đầu nguồn, ở những vị trí có ý nghĩa chiến lược cao. Đó là những sự kiện được báo chí phanh phui. Không ai có thể biết hết những gì Trung Cộng đã và đang làm ở Việt Nam.

Một nguy hiểm khác là, qua việc im lặng ấy, Việt Nam gửi một tín hiệu sai đến các quốc gia khác trên thế giới. Điều hầu như ai cũng đã rõ: Việt Nam không thể tự mình đối đầu với Trung Cộng. Thế Việt Nam quá yếu. Mọi toan tính tự vệ của Việt Nam chỉ trở thành khả thi chỉ với một điều kiện: sự giúp đỡ từ bên ngoài. Nhưng không ai có thể giúp đỡ Việt Nam khi họ không biết Việt Nam nghĩ gì và muốn làm gì. Không có sự hiểu biết ấy không thể có sự liên minh mật thiết được.

image
Nhưng nguy hiểm nhất là điều này: sự im lặng ấy làm cho chính quyền trở thành mục tiêu phê phán và chống đối của dân chúng. Lâu nay, dưới mắt nhiều người, giới lãnh đạo bị xem là những kẻ hoặc quá nhu nhược hoặc bị Trung Cộng mua chuộc để nhường nhịn hết yêu sách này đến yêu sách khác của Trung Cộng. Rất nhiều người thậm chí còn cho giới lãnh đạo là những kẻ bán nước, hoặc ít nhất, bán Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Biển Đông nói chung cho Trung Cộng. Không mấy ai còn tin vào quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của chính quyền. 

Mất đi sự tin tưởng ấy cũng đồng nghĩa với việc mấy đi sức mạnh chính đáng của sự lãnh đạo.

Tiếp tục im lặng và bất chấp ba nguy cơ trên, chính quyền Việt Nam đang tự cô lập mình, tự cách ly mình với dân chúng và với cộng đồng quốc tế. Đó là một quyết định dại dột.



Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc

image

Tháng Tư mãi là nỗi buồn!
Cái chết của những chiếc tàu ngầm
Có cần phi cơ chiến đấu hiện đại?
VTC có 'lỗi nghiệp vụ' ở phóng sự hút shisha
Chất thôn dã Việt trên đất Mỹ
Gian lận để hưởng trợ cấp
Có thật là người Pháp làm ít chơi nhiều?
Xu thế ghét Trung Cộng
Những phi công tự tử trong lịch sử hàng không
50 năm nhìn lại Phong Trào Du Ca Việt Nam
Suy nghĩ của giới trẻ trong nước về Việt Nam Cộng ...
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được trao giải Tự Do Ngô...
Bốn cách đơn giản để gây dựng lòng tin
Hà Nội như bị vặt lông
Cưỡi Ngọn Sấm _ Ride The Thunder
Ðàn ông Việt Nam và con lợn
Mục tiêu của phê bình
Di dời giáo xứ Đông Yên, nỗi lòng kẻ ở người đi
Ở nơi sâu nhất địa cầu
Đồng hồ thông minh Apple Watch
Bệnh & Hỏi đáp y khoa
Công an Việt Nam và quyền bắt người
Ngắm hoa anh đào ở 10 nơi trên thế giới
Ai Cập huyền bí
Nguyễn Tấn Dũng quá bẽ bàng tại thủ đô Canberra
Nghỉ hưu làm gì
Chuyện trào phúng: chủ nghĩa xã hội ưu Việt
Người Việt về thăm quê hương chú ý!
Thân gởi các em dư luận viên (DLV)
Câu chuyện về gia đình cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
Vì sao chúng ta lại ngoáy mũi?
Người con gái Việt Nam trên đại lộ Ayutthaya
Người Tị Nạn và Việt Kiều
8 điều về thiên nhiên kỳ bí
Có chăng món ăn kích dục
Những tranh cãi quanh vụ “Qua Mỹ du lịch sanh con”...
Bởi vì tấm vải che tử thi không có túi
Nga giúp TC trở thành 'Vua Biển Đông'?
Nhìn mặt đoán tính cách như thế nào?
Gandhi vẫn còn là người hùng của Ấn Độ?

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.