The Wall Street
Journal ngày 30/1 đưa tin, hôm qua Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thông báo, cùng
ngày Hải quân Hoa Kỳ đã phái chiến hạm tuần tra bên trong 12 hải lý
đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam, hiện đang
bị Trung Cộng chiếm đóng bất hợp pháp từ 1974 đến nay).
Động thái này bất
ngờ là vì lâu nay Mỹ chỉ tiến hành các hoạt động tương tự ở khu
vực quần đảo Trường Sa, nơi tranh chấp phức tạp với 5 nước 6 bên yêu
sách, trong đó Trung Cộng đang quân sự hóa nhanh chóng khu vực này
bằng việc bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo bất hợp pháp, cản trở tự
do hàng không hàng hải trong khu vực. Chưa bao giờ Mỹ có hoạt động
bảo vệ tự do hàng hải ở Hoàng Sa.
Tiến sĩ Trần Công
Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Theo tuyên bố của
người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ, hoạt động của tàu khu trục USS
Curtis Wilbur (DDG 54) di chuyển bên trong 12 hải lý đảo Tri Tôn, quần
đảo Hoàng Sa vẫn nhắm mục tiêu thể hiện quyết tâm của Mỹ bảo vệ tự
do hàng hải ở Biển Đông.
Sự kiện này tác
động, ảnh hưởng như thế nào đối với Biển Đông? Với tư cách là một
bên liên quan trực tiếp, Việt Nam có bị tác động ảnh hưởng gì từ sự
kiện này?
Hoa Kỳ đánh đồng
quan điểm của Việt Nam với Trung Cộng và Đài Loan về tự do hàng hải
ở Hoàng Sa là một sự hiểu lầm đáng tiếc.
Lầu Năm Góc tuyên
bố, hoạt động của tàu USS Curtis Wilbur nhằm thách thức các nỗ lực
của cả ba bên tranh chấp, Trung Cộng, Đài Loan và Việt Nam muốn giới
hạn các quyền hàng hải và quyền tự do xung quanh các thực thể địa
lý mà họ yêu sách chủ quyền, bằng cách đòi nước khác phải xin phép
hay thông báo trước khi đi qua không gây hại trong phạm vi 12 hải lý
lãnh hải của các thực thể ở Biển Đông.
Đầu tiên cần phải
lưu ý rằng, mục tiêu, đối tượng mà Mỹ muốn thách thức trong các
hoạt động tuần tra bên trong phạm vi 12 hải lý một số thực thể ở
Trường Sa và bây giờ là Hoàng Sa chỉ nhằm bác bỏ các "đòi hỏi
quá mức" của các bên, mà cụ thể và điển hình nhất là Trung Cộng, đối với các vùng biển hiệu lực của các thực thể này, chứ
không đề cập đến yếu tố CHỦ QUYỀN của các thực thể đó thuộc về
quốc gia nào.
Câu hỏi đặt ra là,
vậy yêu sách của Việt Nam, Trung Cộng và Đài Loan đối với các vùng
biển hiệu lực xung quanh các thực thể ở Hoàng Sa khác nhau như thế
nào? Cái nào phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS) mà Hoa Kỳ đang cố gắng bảo vệ? Cái nào chống lại UNCLOS?
Trả lời được những câu hỏi này sẽ tránh được những hiểu lầm đáng
tiếc.
Tàu khu trục USS
Curtis Wilbur
Thứ nhất, đối với
Việt Nam, Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định rõ trong Điều 12 - Chế
độ pháp lý của lãnh hải:
2. Tàu thuyền của tất
cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam.
Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không
gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa
bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Còn Phần 3, Điều 21
UNCLOS về luật pháp và các quy định của quốc gia ven biển liên quan
đến đi qua vô hại trong lãnh hải:
1. Các quốc gia ven biển
có thể THÔNG QUA CÁC LUẬT VÀ QUY ĐỊNH, phù hợp với các quy định của Công ước
này và các quy định khác của pháp luật quốc tế, liên quan đến đi qua vô hại
trong lãnh hải, đối với tất cả hay bất kỳ những điều sau đây: (....)
2. Các quốc gia ven biển
có trách nhiệm cung cấp cho công chúng tất cả các luật và quy định đó.
3. Tàu nước ngoài thực
hiện quyền đi qua vô hại qua lãnh hải phải tuân thủ tất cả các luật và quy định
và các quy định quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến việc phòng ngừa đâm
va trên biển.
Như vậy có thể
thấy rõ, Luật Biển Việt Nam không hề mâu thuẫn với UNCLOS, không hạn
chế quyền đi qua vô hại của tàu nước ngoài trong lãnh hải 12 hải lý
của mình bằng việc buộc các tàu này phải XIN PHÉP.
Về việc tàu quân
sự nước ngoài thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam,
điều này không những góp phần hỗ trợ các hoạt động đi qua vô hại
trong lãnh hải Việt Nam của tàu nước ngoài được diễn ra thuận lợi
và đúng luật, mặt khác còn bảo lưu quyền và lợi ích hợp pháp của
Việt Nam như Khoản 1 Điều 21 Phần 3 UNCLOS đã nêu.
Trung Cộng thì
ngược lại, họ đòi tàu nước ngoài khi đi qua 12 hải lý lãnh hải mà
họ yêu sách (vô lý, phi pháp đối với Hoàng Sa, Trường Sa) phải XIN
PHÉP nước này.
Thời báo Hoàn Cầu
ngày 30/1 dẫn lời bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quốc nói rằng, tàu thuyền quân sự nước ngoài muốn đi qua vô hại
trong lãnh hải 12 hải lý (mà Trung Quốc yêu sách), phải được chính
phủ Trung Quốc PHÊ CHUẨN.
Bà Hoa Xuân Oánh, Bộ
Ngoại giao Trung Cộng.
Rõ ràng đó là sự
vi phạm trắng trợn Khoản 1 Điều 24 Phần 3 UNCLOS. Nội dung này quy
định, các quốc gia ven biển không được áp đặt các yêu cầu đối với
tàu nước ngoài mà trên thực tế nhằm từ chối hoặc làm suy yếu quyền
đi qua vô hại.
Bởi vậy, thiết
nghĩ Lầu Năm Góc không nên đánh đồng Việt Nam vào một nhóm với Trung Cộng, Đài Loan trong vấn đề quyền tự do hàng hải ở Hoàng Sa, Trường
Sa để có hành động phản đối.
Việt Nam có chủ
quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời Việt Nam
cũng là thành viên UNCLOS, tuân thủ đầy đủ quy định của Công ước, bao
gồm việc bảo đảm quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Trung Cộng thì đang làm ngược lại.
Tại sao Mỹ lại chọn
Hoàng Sa để "ra tay"?
Như đã nói ở phần
trên, Hoa Kỳ chỉ thách thức các "đòi hỏi quá đáng", yêu
sách làm phương hại đến quyền tự do hàng không, hàng hải ở Biển Đông
chứ không đứng về bên nào khi nói đến CHỦ QUYỀN đối với các thực
thể ở Biển Đông, cụ thể là 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Trường Sa là nơi 5
nước 6 bên có yêu sách. Quần đảo này lại án ngữ tuyến đường hàng
hải huyết mạch toàn cầu và là nơi Trung Cộng đang quân sự hóa mạnh
mẽ, đe dọa nghiêm trọng tự do hàng không hàng hải ở Biển Đông thì Mỹ
can thiệp là điều dễ hiểu.
Còn Hoàng Sa dưới
góc nhìn của Mỹ là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Trung Cộng, Đài
Loan và Việt Nam, không liên quan nhiều đến hoạt động hàng không, hàng
hải, tại sao Mỹ lại lựa chọn làm đối tượng để thực hiện việc bảo
vệ tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông lúc này?
Cá nhân tôi cho
rằng, sở dĩ Hoa Kỳ chọn đảo Tri Tôn, Hoàng Sa để tiến hành tuần tra
bảo vệ quyền tự do hàng hải lúc này, ngoài khả năng có thể Mỹ đã
phát hiện thấy Trung Cộng đang có động thái nào đó về mặt quân sự
ở Hoàng Sa, Washington còn có mục đích phá vỡ mưu đồ của Trung Cộng hòng hiện thực hóa đường lưỡi bò về mặt pháp lý.
Tạm gác lại câu
chuyện chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ riêng
việc ứng dụng và giải thích UNCLOS đối với 2 quần đảo này, Trung Cộng đã bộc lộ những mưu đồ nguy hiểm nhằm độc chiếm Biển Đông về
mặt pháp lý.
Ngày 15/6/1996, Trung Cộng phê chuẩn UNCLOS và ban hành quy định về hệ thống đường cơ sở
để tính chiều rộng lãnh hải, bao gồm quần đảo Hoàng Sa.
Nước này tuyên bố
xác định đường cơ sở của quần đảo Hoàng Sa bằng phương pháp vạch
đường cơ sở thẳng chỉ áp dụng cho các quốc gia quần đảo, để nối
liền 28 điểm nhô ra nhất của các đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm
thuộc Hoàng Sa.
Hình minh họa
đường cơ sở Trung Cộng tự vẽ ở Hoàng Sa bằng cách "vận
dụng" vô lý phương pháp xác định đường cơ sở thẳng, áp dụng cho
quốc gia quần đảo theo Điều 47 UNCLOS do học giả Song Phan, Sydney, Úc
đồ họa.
Bắc Kinh có thể
đang nhăm nhe công bố đường cơ sở lãnh hải đối với quần đảo Trường
Sa, bãi cạn Scarborough với cùng một thủ đoạn tương tự. Nếu điều này
xảy ra mà không vấp phải sự ngăn cản nào, Trung Cộng có thể hiện thực
hóa đường lưỡi bò về mặt pháp lý.
Vấn đề ở đây là,
cả Hoàng Sa, Trường Sa, Scarborough không phải quốc gia quần đảo theo
Điều 47 UNCLOS, chúng không có một đời sống kinh tế riêng, do đó không
thể áp dụng quy chế xác định đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng
lãnh hải như các quốc gia quần đảo.
Cả Hoàng Sa, Trường
Sa hay bất kỳ thực thể riêng biệt nào trong 2 quần đảo này và
Scarborough đều không đủ điều kiện hưởng quy chế 200 hải lý vùng đặc
quyền kinh tế theo Điều 121 UNCLOS vì chúng không có đời sống kinh tế
riêng.
Nói cách khác, dưới
ánh sáng của Công pháp quốc tế, Hoàng Sa và Trường Sa không có đường cơ sở để
tính chiều rộng lãnh hải, không có lãnh hải chung cho cả quần đảo. Chỉ có một số
thực thể thuộc 2 quần đảo này phù hợp với tiêu chuẩn của Điều 121 UNCLOS thì có
lãnh hải riêng.
Tuy nhiên Trung Cộng lại đang tìm cách bẻ cong UNCLOS để đòi 200 hải lý vùng đặc quyền
kinh tế cho Hoàng Sa, Trường Sa, Scarborough là những đối tượng họ yêu
sách. Chỉ cần từ 3 điểm này, Trung Cộng vạch bán kính 200 hải lý
là gần hết Biển Đông, bằng cách này Trung Cộng hòng hiện thực hóa
đường lưỡi bò về mặt pháp lý.
Để ngăn chặn và
phá tan âm mưu này, Hoa Kỳ không chỉ cho tàu, máy bay tuần tra ở Xu Bi,
Vành Khăn của quần đảo Trường Sa, mà nay còn bắt đầu tuần tra ở Tri
Tôn, Hoàng Sa.
Tất nhiên có thể
giữa các nước lớn họ có những tính toán khác nữa, đặc biệt là khi
Mỹ và Trung Cộng đang cạnh tranh ảnh hưởng ngày càng gay gắt trong khu
vực và trên Biển Đông.
Trung Cộng có thể
vin cớ các hoạt động này của Hoa Kỳ để đẩy nhanh quá trình quân sự
hóa ở Biển Đông. Nhưng dù Mỹ tuần tra hay không thì Trung Cộng vẫn sẽ
cứ làm tới.
Bằng chứng là 3 đường băng quân sự và 7 đảo nhân tạo
khổng lồ họ mới bồi đắp ở Trường Sa hay việc điều chiến đấu cơ ra
Phú Lâm, Hoàng Sa và nối dài đường băng quân sự...
Vấn đề chủ quyền và
UNCLOS
Qua việc Mỹ cho tàu
tuần tra bên trong 12 hải lý ở Tri Tôn, Hoàng Sa, một lần nữa chúng ta
với tư cách một bên liên quan trực tiếp có chủ quyền đối với 2 quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa cần nhận thức rõ ràng, tách bạch giữa vấn
đề CHỦ QUYỀN với vấn đề áp dụng và giải thích UNCLOS ở Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ Ash Carter gần đây cũng đã giải thích rõ hoạt động tuần tra
của tàu USS Lassen bên trong phạm vi 12 hải lý đá Xu Bi, Trường Sa,
Khánh Hòa ngày 27/10 năm ngoái trong một bức thư trả lời thắc mắc
của Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện John McCain.
Một số quan điểm
cho rằng các hoạt động của Hoa Kỳ ở Biển Đông nhằm "thách thức
yêu sách CHỦ QUYỀN" của Trung Cộng. Tuy nhiên điều này cần phải
được hiểu chính xác là, Mỹ đang phá tan âm mưu của Trung Cộng hiện thực
hóa đường lưỡi bò thông qua đòi hỏi vô lý 200 hải lý vùng đặc quyền
kinh tế cho Hoàng Sa, Trường Sa, Scarborough chứ không phải vấn đề CHỦ
QUYỀN đối với các thực thể ở Hoàng Sa hay Trường Sa.
Bởi nếu chúng ta
nhầm lẫn điều này, vô hình chung chúng ta đang tiếp tay, tiếp sức cho
Trung Cộng trong việc tung hỏa mù với dư luận, đánh tráo các khái
niệm pháp lý để Bắc Kinh trục lợi phi pháp.
Mặc dù chính quyền
và các quan chức Mỹ rất công khai, minh bạch và nhất quán lập trường
không thiên vị bên nào trong các bên yêu sách CHỦ QUYỀN ở Biển Đông,
nhưng Mỹ kiên quyết chống lại các "đòi hỏi quá mức", yêu
sách bành trướng trong việc áp dụng, giải thích UNCLOS gây cản trở
tự do hàng không, hàng hải ở Biển Đông.
Còn Trung Quốc thì
vẫn cứ cố tình hiểu sai và tuyên truyền sai.
Người Mỹ chưa bao
giờ nói "các đảo ở Biển Đông" thuộc về quốc gia nào như
Trung Cộng đang tuyên truyền. Họ chỉ quan tâm các thực thể này có
hiệu lực pháp lý đến đâu. Không thể đòi 12 hải lý lãnh hải cho các
bãi cạn lúc nổi lúc chìm. Càng không thể đòi 200 hải lý vùng đặc
quyền kinh tế cho bất kỳ thực thể nào ở Hoàng Sa, Trường Sa hay
Scarborough.
Đó là lý do tại
sao ông Mã Anh Cửu vội vã ra đảo Ba Bình, Trường Sa lấy một ít rau
trái, nước ngọt về để thanh minh rằng đảo này có 200 hải lý vùng đặc
quyền kinh tế theo Điều 121 UNCLOS.
Tòa Trọng tài
Thường trực PCA tới đây sẽ ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Cộng áp dụng giải thích sai UNCLOS, trong đó có nội dung các thực
thể ở Trường Sa không phải là một "Island" để hưởng quy chế
200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế theo Điều 121 UNCLOS.
Câu chuyện về chủ
quyền chúng ta phải đấu tranh theo một hệ thống pháp lý riêng, không
phải việc áp dụng và giải thích UNCLOS. Tách bạch rõ hai điều này,
chúng ta mới có thể đấu tranh hiệu quả trong việc bảo vệ chủ quyền,
quyền và lợi ích hợp pháp của mình ở Hoàng Sa, Trường Sa cũng như
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp ở Biển Đông, không bị
rơi vào những cái bẫy pháp lý đối phương đang cố tình giăng ra.
Thiết nghĩ chỉ có
như vậy, chúng ta mới tận dụng tối đa được vai trò, ảnh hưởng của
các cường quốc bao gồm Hoa Kỳ trong việc gìn giữ hòa bình, ổn định
và luật pháp quốc tế ở Biển Đông, ngăn chặn mọi hành vi sử dụng vũ
lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.
TS Trần Công Trục
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.